Vị tướng quân “không thờ hai chủ” được cả triều Đinh và Lý trọng dụng
Dòng họ Bùi Quang ở ấp Hàm Châu xưa, nay là làng Đồng Thanh, xã Tân Bình, thành phố Thái Bình còn lưu giữ gia phả cổ viết bằng chữ Hán có ghi chép về Anh Dực tướng quân Bùi Quang Dũng. Ông là một vị tướng quân đặc biệt, được cả triều Đinh và Lý trọng dụng, dù bản thân ông nổi tiếng là trung nghĩa, “không thờ hai chủ”.
(Tranh minh họa: Họa sĩ Sỹ Hòa, Báo Bình Phước Online)
Tướng quân Bùi Quang Dũng sinh năm 921 ở Phong Châu (Phú Thọ), thuở nhỏ nổi tiếng thông minh, lớn lên có tài văn võ, lại hiếu thảo lễ phép với bề trên nên ai cũng quý mến.
Chờ gặp minh chủ
Năm 944, Ngô Quyền mất, đất nước rơi vào thời kỳ loạn 12 Sứ quân. Biết Quang Dũng có tài, các Sứ quân như Ngô Xương Xí, Kiều Công Hãn, Đỗ Cảnh Thạc đều mời ông theo về với mình. Tuy nhiên Bùi Quang Dũng đều từ chối.
Trong gia phả có chép sự việc Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc cho Nguyễn Văn Thao đến nhà mời ông như sau: “Ông Thao ở với gia đình cụ gần một tháng. Cụ thường đem chuyện cày cấy, buôn bán ra nói. Hễ ông Thao đả động đến chuyện loạn lạc, cụ chỉ ngồi lặng yên nghe, khi bàn đến chuyện can qua trận mạc, cụ tỏ ra sợ hãi.”
Cho rằng Bùi Quang Dũng không có tài cán gì, Nguyễn Văn Thao về nói với Đỗ Cảnh Thạc: “Người ta đều khen hắn là tài trí, nhưng tôi xem ra chỉ là hư danh mà thôi.”
Kỳ thực Bùi Quang Dũng đã bàn với người nhà rằng: “Thờ vua phải biết chọn người. Những người ấy thì làm được gì. Bây giờ chưa phải thời, chưa đến lúc chọn được minh chủ.”
Đến năm 967, Đinh Tiên Hoàng đưa quân tiến đánh các Sứ quân. Cho rằng thời cơ đã đến, Bùi Quang Dũng cùng 600 quân ra mắt Đinh Tiên Hoàng, góp công đánh bại các Sứ quân, thống nhất Giang Sơn về một mối.
Năm 968, Đinh Tiên Hoàng lên ngôi Vua, ban thưởng cho các tướng sĩ. Bùi Quang Dũng được phong làm Anh Dực tướng quân, sung Điện tiền Đô chỉ huy sứ kiêm Thiêm sự.
Dùng đức dẹp loạn, giúp dân khai phá đất lập làng
Năm 971 ở Kỳ Bố (Thái Bình) có Ngô Văn Kháng nổi loạn chống triều đình. Vua Đinh Tiên Hoàng cử tướng đi đánh dẹp nhưng không thành. Vua bèn cử Bùi Quang Dũng đến đánh. Bùi Quang Dũng không dùng binh, mà dùng lý lẽ thuyết phục được Ngô Văn Kháng.
Sau việc ấy, Vua ban thưởng phong cho ông làm Trấn Đông Tiết độ sứ, Tổng thống kiêm lý ba đạo, được đóng quân ở thành Kỳ Bố; sau lại thăng Đặc khai quốc Thiên sách Thượng tướng, tước An Tĩnh hầu và truy tặng cha ông là Khải Tá hầu.
Bùi Quang Dũng được ban thực ấp Hàm Châu, cai quản vùng đất Bố Hải Khẩu. Ông tập hợp dân khai phá vùng đất ở ven sông Lãng Bạc và sông Cái (sông Trà Lý ngày nay), khiến vùng đất hoang vu thành làng xóm đông vui, ruộng đồng tươi tốt. Vùng đất được khai phá này ngày nay thuộc các xã Minh Lãng, Phúc Thành – huyện Vũ Thư, Tân Bình – thành phố Thái Bình.
Biến cố của nhà Đinh
Năm 979, triều đình xảy ra biến cố lớn, vua Đinh Tiên Hoàng cùng con là Đinh Liễn bị sát hại. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn đưa Vệ Vương Đinh Toàn lên ngôi vua.
Vua mới 6 tuổi còn nhỏ nên Lê Hoàn nhiếp chính, phong là Phó Vương. Nhưng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú đều nghi ngờ Lê Hoàn sẽ gây điều bất lợi cho Vua nhỏ, thậm chí tư thông với Thái hậu Dương Văn Nga để cướp ngôi, liền tập hợp quân chống lại Lê Hoàn.
Đây là cuộc nội chiến bi thương trong sử Việt, cuối cùng Lê Hoàn với tài thao lược của mình đã đánh bại các vị đại thần khác. (Xem bài: Cuộc nội chiến bi hùng năm 979 ảnh hưởng lớn đến vận mệnh dân tộc )
Trước đây, Đinh Tiên Hoàng vốn muốn hòa hoãn với nhà Tống nên đã sai Đinh Liễn sang cống sứ nhà Tống. Nhà Tống phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Bởi vậy khi nghe tin Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị giết, nhà Tống đã nhân đó mà chuẩn bị binh lực tiến đánh.
Đất nước một lần nữa đứng trước nguy cơ quay về thời kỳ bắc thuộc. Thái hậu Dương Vân Nga nhân việc này trao ngôi Vua cho Lê Hoàn với lý do nhằm tập hợp toàn quân chống Tống. Bà đồng thời trở thành Hoàng hậu của Lê Hoàn.
Trong suốt quá trình biến động triều đình này, Bùi Quang Dũng không tham gia. Tuy nhiên năm 981 khi quân Tống tiến đánh, ông đã có những đóng góp to lớn trong cuộc chiến chống ngoại xâm.
Tâm niệm “tôi trung không thờ hai chủ” , sau khi quân Tống bại trận, Giang Sơn vững vàng, Bùi Quang Dũng đã lui về ở ẩn tại động Trinh Thạch (Phong Châu, Phú Thọ), xa rời mọi chính sự.
Trở về triều vì dân chúng
Sau khi vua Lê Đại Hành mất, các hoàng tử tranh giành ngôi vua, chiến loạn khắp nơi, dân chúng thống khổ dẫn đến nổi loạn. Năm 1009, triều đình tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra nhà Lý.
Biết Bùi Quang Dũng là người có tài, được lòng dân, nhưng ở ẩn, Vua 3 lần cho mời ông đến giúp mình nhưng lần nào ông cũng từ chối.
Năm 1011, vùng đất do Bùi Quang Quang Dũng cai quản xưa ở Kỳ Bố Hải Khẩu có nổi loạn. Triều đình 3 lần đưa quân đánh đánh dẹp nhưng đều thất bại. Tướng Nguyễn Uy biết dân chúng nơi đây đều nhớ ơn Bùi Quang Dũng nên viết thư bẩm báo về triều đình.
Vua liền cho người đến động Trinh Thạch gặp Bùi Quang Dũng, nói rõ sự việc ở Kỳ Bố, rồi mời ông về triều. Mặc dù lòng “không thờ hai chủ”, nhưng trước việc chỉ có bản thân mới có thể giúp dân chúng và triều đình tránh khỏi tổn thất, Bùi Quang Dũng quyết định trở về.
Vua rất kính trọng hậu đãi ông, phong làm “Minh Triết Phu Tử” và lấy nguyên chức tước Dực tướng quân lĩnh trấn đông tiết độ sứ của ông thời nhà Đinh phong cho con trai ông là Bùi Quang Anh. Đồng thời Vua để hai cha con ông đến Bố Hải Khẩu.
Khi hai cha con ông đến Bố Hải Khẩu, người dân nơi đây biết tin đều kéo đến đón tiếp. Dân chúng vẫn còn nhớ ân đức của ông, lòng người tự quy thuận mà không cần phải đánh.
Bùi Quang Dũng mất năm 1018, thọ 97 tuổi. Vua phong cho ông là Trịnh Quốc Công, đồng thời đích thân tự tay đề ngự văn bia cho ông. Theo bản dịch của tiến sĩ Mai Hồng thuộc Viện nghiên cứu Hán Nôm, nội dung văn bia như sau:
Mỗ (ý chỉ Bùi Quang Dũng) vốn thuộc dòng giống Tiên Rồng đất Việt, là nòi hổ tướng trời Nam, là khí thiêng của đất trời hun đúc, bẩm thụ tính tinh anh của núi sông. Văn tài võ lược siêu quần, uy nghi xuất chúng.
Tinh thần trung dũng quả cảm ấy của mỗ thực đã biểu lộ cái tầm nhìn xa rộng của mỗ về thế gian này.
Ngày sau nếu triều đình hữu sự thì trẫm có thể sai khiến sử dụng đứa cháu của mỗ.
Lời nói ấy cứ âm vang mãi bên tai trẫm; đinh ninh mãi trong tim trẫm. Trẫm nghĩ cử chỉ ấy của mỗ chính là một tấm gương để cho các tôi thần của trẫm này soi chung vậy.
Trẫm bùi ngùi than thở: Trời vừa mới thương họ Lý ta mà sao vội cướp đi một triết nhân vậy…
Ô hô! Mỗ hiếu trung vẹn cả hai đường.
Tiết nghĩa song toàn hai chữ.
Ðó quả là điều hiếm thấy, hiếm nghe bậc nhất từ cổ chí kim ở thế gian này. Trẫm mong cho tính danh của mỗ sẽ bất tử; hơn nữa nó là tấm gương cho các thế hệ bề tôi của trẫm mãi về sau soi vào.
Năm 1020, nhân đi tuần phòng phía đông, vua Lý Thái Tổ viếng mộ Bùi Quang Dũng và ngự đề đôi câu đối ở từ đường:
Bất sự nhị quân, trang liệt phong, Trinh Thạch động, tam thập niên quán cổ.
Lực phù thống nhất, vân lôi chính khí, Hàm Châu ấp, thiên vạn tải như sinh.
Nghĩa là:
Không thờ hai vua, tiếng trung liệt cao vời vợi, động Trinh Thạch 30 năm lừng tiếng.
Hết sức giúp nền thống nhất, chí khí ngay thẳng vang dội, ấp Hàm Châu vạn cổ vẫn còn.
Trần Hưng
Mời xem video :