Vì sao lạm phát kéo dài?
Cơn bão lạm phát đang khiến cộng đồng doanh nghiệp và người dân đuối sức trông thấy. Giá lương thực và thực phẩm nhiều nơi đang tăng vùn vụt. Ở nhiều quận của TP.HCM, giá một đĩa cơm trưa trước đây chỉ 30.000 đồng thì nay hầu hết đã tăng thêm 5.000 - 10.000 đồng.
Tại nhiều siêu thị, giá các mặt hàng thiết yếu như dầu ăn, mì gói, sữa… đều tăng mạnh 15-20% do chi phí nguyên vật liệu, xăng dầu… đồng loạt nhảy dựng. Giữa lúc thu nhập và công ăn việc làm chịu ảnh hưởng vì dư chấn của đại dịch COVID-19, chi phí sinh hoạt tăng chóng mặt khiến cho đời sống của người dân và hoạt động của nhiều doanh nghiệp lâm nguy.
Nhiều hãng vận tải nhất loạt tăng giá vé để bù đắp tổn thất do chi phí nhiên liệu gia tăng. Xe khách tuyến từ Sài Gòn đi miền Tây, miền Trung hay Tây Nguyên đều tăng giá vé 10-15%. Hãng gọi xe công nghệ Grab cũng thông báo tăng cước tất cả dịch vụ như GrabBike tại TP.HCM lên 12.500 đồng cho 2km đầu tiên và 4.300 đồng cho mỗi kilômet tiếp theo. Dù vậy, với tâm lý tiết kiệm hơn của người dân, lượng vận chuyển hành khách có thể giảm mạnh trong thời gian tới.
Ngay cả các doanh nghiệp hàng đầu cũng không tránh được cú sốc lạm phát dù đã chủ động tăng cường kiểm soát chi phí. Quý 1-2022, do giá nguyên vật liệu sữa bột và đường tăng đột biến, cước phí container tăng và chi phí phòng chống dịch nên lợi nhuận ròng của Hãng sữa Vinamilk chỉ đạt 2.283 tỉ đồng, giảm đến 12% so với cùng kỳ năm trước.
Giữa tháng 5, Vinamilk thông báo tiếp tục tăng giá thêm 5% với hàng loạt sản phẩm. Ban lãnh đạo Vinamilk cho biết do giá tất cả các nguyên liệu đầu vào đã tăng 37-40% so với cùng kỳ, nên việc tăng giá bán sản phẩm là tất yếu. Hãng đã cố gắng cầm cự, duy trì mặt bằng giá ổn định trong một thời gian dài, nhưng đến nay không thể cố thêm nữa. Tất nhiên, trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ sữa của người dân chưa thể phục hồi như trước đại dịch, đợt tăng giá bán lần này càng khiến Vinamilk đối mặt với nguy cơ sụt giảm doanh số.
Không chỉ khu vực tư chịu ảnh hưởng bởi lạm phát, khu vực công cũng đang tổn thất không nhỏ, khi chi phí năng lượng và nguyên vật liệu đồng loạt tăng đang gây khó khăn cho mục tiêu giải ngân đầu tư công, điều tới lượt nó có thể làm chậm nhịp phát triển hạ tầng, tác động trực tiếp lên các mục tiêu tăng trưởng.
Tổng cục Thống kê cho biết lượng giải ngân vốn đầu tư công 4 tháng đầu năm chỉ tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước và mới hoàn thành 20,6% so với kế hoạch năm. Đầu tư công chậm lại do chi phí vật liệu xây dựng tăng đột biến, gồm thép, ximăng, đá, cát, chi phí xăng dầu. Được xem là động lực chính để kích thích kinh tế sau đại dịch, nếu các tuyến cao tốc, sân bay, cảng biển… chậm tiến độ, mục tiêu GDP tăng trưởng 6% năm nay khó lòng đạt được.
Một trong những điều đáng ngại nhất trong môi trường lạm phát cao là nguy cơ tiền đồng mất giá. Đồng USD đã liên tiếp đi lên do Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất cơ bản nhằm đối phó với lạm phát ở Mỹ. Hiện tỉ giá USD/VND niêm yết ở nhiều ngân hàng đã vượt mốc 23.000 và chưa có dấu hiệu dừng lại.
Tiền đồng giảm giá có thể hỗ trợ xuất khẩu, nhưng trong điều kiện tài chính toàn cầu đang thắt chặt ở hầu hết các nền kinh tế lớn, nhu cầu với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam không được sáng sủa như kỳ vọng.
Ở chiều ngược lại, tiền đồng mất giá khiến chi phí nhập khẩu nguyên vật liệu và nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của cả doanh nghiệp và Chính phủ tăng lên theo.
Nỗi ám ảnh lạm phát và tiền mất giá càng thúc đẩy dòng tiền trong xã hội dịch chuyển về các tài sản được cho là an toàn hơn như vàng, bất động sản hay tiền ảo. Hệ lụy là một lượng vốn lớn không chảy vào hoạt động sản xuất kinh doanh, điều có thể tạo ra vòng xoáy tai hại của sự thiếu hụt nguồn cung và đình lạm.
Để giữ được nguồn vốn, hệ thống ngân hàng đang tăng lãi suất huy động.
Chính sách tăng lãi suất huy động với hệ thống ngân hàng là bất đắc dĩ, nhưng họ buộc phải làm vậy để tránh hiện tượng rút vốn từ người dân. Tuy nhiên, chi phí đầu vào gia tăng thì lãi suất cho vay cũng phải tăng tương ứng, gây áp lực thêm cho doanh nghiệp.
Nửa cuối năm được dự báo sẽ ổn định hơn so với đầu năm nhưng vẫn đầy bất trắc. Giá dầu thô Brent ở mức 97,9 USD/thùng trong quý 1-2022, tăng 59,7% so với cùng kỳ 2021. Dự báo của Vndirect cho rằng thời gian tới giá dầu thô và khí đốt tự nhiên khó có thể trở lại mức trước khủng hoảng.
Ngoài dầu khí, các nguyên liệu đầu vào khác như than, thép, đồng, nhôm… tăng giá sẽ tác động đến giá thành sản xuất của Việt Nam. Phân bón và các mặt hàng nông nghiệp (lúa mì, ngô, lúa mạch) tăng giá sẽ tạo áp lực lên giá lương thực, thực phẩm trong nước, mặc dù tác động được dự báo sẽ hạn chế hơn, do đặc thù Việt Nam tự đáp ứng được hầu hết nhu cầu lương thực trong nước.
Điều gì khiến lạm phát cao một cách "lì lợm" như vậy? Đó là chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế suốt từ giữa năm 2021 đến nay.
Đầu tháng 7-2021, một bạn học cũ làm việc cho một ngân hàng ở Canada gọi tôi nhân dịp nước Anh sẽ tuyên bố "ngày độc lập" vào giữa tháng, nghĩa là mở cửa hoàn toàn sau dịch COVID-19 mà không có giới hạn gì. Anh hỏi: "Cậu nghĩ lạm phát sẽ tăng cao bao lâu?". Tôi đoán mò: "Có lẽ đến hết 2021". Anh cười: "FED [Cục Dự trữ liên bang Mỹ] nghĩ khác cậu".
Lúc đó FED, hay ngân hàng trung ương của Mỹ, tin rằng lạm phát bắt đầu tăng cao chỉ là tạm thời. Tại hội nghị thường niên Jackson Hole vào tháng 8-2021, một sự kiện chủ chốt của giới kinh tế Mỹ và toàn cầu, chủ tịch FED Jerome Powell cho biết mặc dù lạm phát tăng là điều đáng quan ngại, ông cho rằng xu thế đó là tạm thời. Do đó, ông nhận định phản ứng với việc giá cả tăng bằng cách tăng lãi suất là một "sai lầm tai hại" (harmful mistake) cho nền kinh tế.
Đến hôm nay nhìn lại thì ai cũng thấy ông Powell và nhiều quan chức FED đã sai lầm. Và ngay sau phát biểu của ông ở Jackson Hole, một số nhà phân tích tại các ngân hàng đầu tư đã chỉ ra rằng nếu ông Powell sai về chuyện "lạm phát chỉ là tạm thời" thì hậu quả có thể là đáng ngại. Thực tế đang diễn ra đúng như lo ngại đó.
Đây chính là nguyên nhân đầu tiên góp phần khiến lạm phát tăng kéo dài. Không chỉ FED, nhiều ngân hàng trung ương chủ chốt khác cũng vậy. Ở thời điểm đó hầu như chỉ có Trung Quốc "đi ngược chiều gió" về chính sách tiền tệ, do quan điểm siết chặt tiền tệ để hạn chế bong bóng tài sản.
Tại thời điểm các gói kích thích kinh tế từ nguồn ngân sách như cho tiền dân tiêu xài, trợ giá nhà hàng mở cửa trở lại, cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vay tiền trả lương nhân viên với lãi suất gần bằng không (thậm chí cho luôn), việc các ngân hàng trung ương duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng quá lâu, kết hợp với đứt gãy chuỗi cung ứng, thiếu hụt nguồn cung hàng hóa, rồi cả nhân công sản xuất, cung cấp dịch vụ, là hàng loạt nguyên nhân khiến lạm phát kéo dài.
Đến lúc này hệ quả đã bộc lộ rõ ràng. Giá cả tăng ở hầu hết các nhóm hàng hóa, từ đồ ăn thức uống, năng lượng, cho đến những món hàng ít người ngờ tới như xe hơi cũ.
Và bước ngoặt 2022 đến với cuộc chiến Nga - Ukraine: giá năng lượng toàn cầu tăng mạnh.
Cuộc chiến làm gián đoạn nguồn cung cấp năng lượng, dầu mỏ và khí đốt, một số kim loại quan trọng, rồi lương thực, ảnh hưởng luôn cả thị trường phân bón toàn cầu. Nếu như năm 2021, rất nhiều mặt hàng đều tăng giá và đóng góp vào lạm phát chung, thì từ tháng 3-2022, lạm phát bị chi phối chủ yếu bởi chi phí năng lượng của các hộ gia đình và chi phí vận chuyển.
Đồ thị thể hiện mức tăng giá các mặt hàng trong rổ lạm phát của Anh, nơi tôi đang sống, cho thấy mức tăng giá tiền điện, khí đốt và chi phí đi lại của hộ gia đình đóng vai trò chủ chốt kéo lạm phát lên cao nhất trong vòng 30 năm vào tháng 4-2022, chiếm hơn một nửa vào tỉ lệ lạm phát chung.
Một điểm đáng chú ý là chi phí lương thực và đồ uống ở Anh cũng tăng nhanh hơn trong mấy tháng đầu năm 2022, do tình trạng thiếu hụt một số loại lương thực chủ đạo trên toàn cầu, như lúa mì. Giá bánh mì, nui, mì ống - những loại lương thực cơ bản của một gia đình người Anh - đã tăng mạnh.
Các khoản này tăng mạnh được xem là thảm họa với những gia đình nghèo khắp mọi nơi, vì nó chiếm phần lớn trong tổng chi tiêu của họ. Lạm phát lúc nào cũng tác động nặng nề đến túi tiền của người nghèo hơn người giàu, nước nghèo hơn là nước giàu, và đợt lạm phát này thì rõ ràng như vậy.
Thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh đã rất thật thà: "Ngân hàng Trung ương Anh không thể làm gì để tác động đến các vấn đề của chuỗi cung ứng toàn cầu hay giá năng lượng, những nhân tố đang đẩy lạm phát lên".
Khi lạm phát bây giờ do chi phí đẩy, thì tác động vào tổng cầu bằng cách tăng lãi suất chỉ là một động thái bề mặt, có tác động "câu giờ", làm hạ nhiệt động cơ tiêu dùng của nền kinh tế và hy vọng phía nguồn cung được giải quyết.
Trong các giải pháp "câu giờ" chờ vấn đề phía cung được giải quyết, Chính phủ Anh vừa thông qua kế hoạch chi ngân sách hỗ trợ các hộ gia đình khó khăn. Cụ thể, chính phủ sẽ trực tiếp gửi đến 8 triệu hộ gia đình Anh một khoản chi hỗ trợ 650 bảng (1 bảng Anh = 1,26 USD), và 300 bảng cho mỗi người về hưu.
Ngoài ra, từ tháng 10-2022, tất cả hộ gia đình ở Anh sẽ được giảm 400 bảng hóa đơn tiền điện, khí đốt. Cộng luôn cả các khoản từ chính quyền địa phương, tổng cộng gói hỗ trợ mới ước tính tốn khoảng 15 tỉ bảng. Một phần trong đó sẽ được thu lại từ việc tăng thuế đánh vào các công ty năng lượng đang có lợi nhuận cao đột biến.
Mặc dù giải pháp này gây ra tranh cãi lớn trong cộng đồng đầu tư và kinh tế, đặc biệt là khoản thuế đánh vào những công ty mà chính nước Anh đang cần khuyến khích đầu tư để tăng nguồn cung dầu và khí đốt, nó mang tính hỗ trợ người nghèo và ổn định xã hội.
Bất kể là các đảng đối lập cũng như nhiều chuyên gia đang chỉ trích Chính phủ Anh là chi hỗ trợ nhằm kiếm phiếu, việc giúp người nghèo vượt qua cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt hiện nay là rất cần thiết.
Nội dung: NAM MINH - HỒ QUỐC TUẤN Thiết kế: NGỌC THÀNH NGỌC THÀNH
Nội dung: NAM MINH - HỒ QUỐC TUẤN Thiết kế: NGỌC THÀNH