Tu luyện – một nền khoa học bị lãng quên

Chia sẻ Facebook
13/05/2023 09:14:09

Không chỉ ở Trung Hoa cổ đại, khắp nơi trên thế giới đều lưu lại dấu tích của những người tu luyện. Họ chính là những người khai sáng văn minh, “những ảo thuật gia của Thượng Đế” mà nhà nghiên cứu Graham Hancock nhắc đến trong một quyển sách best-seller của ông.


Thứ bảy, 13/05/2023

Thử kể một chuyện cười:


Bằng phương pháp “Đồng vị phóng xạ”, một nhóm các nhà khảo cổ tiến hành khai quật tại 3 nơi được coi là có cùng niên đại 600 năm: (Moscow) Nga, Washington, D.C (Mỹ) và Ninh Bình (Việt Nam).

Địa điểm 1: tại Nga họ tìm được mấy mẩu dây đồng, họ kết luận: 600 năm trước người Nga đã có biết sử dụng điện thoại hữu tuyến sợi đồng.

Địa điểm 2: ở Mỹ tìm được nhiều mảnh thủy tinh có dạng sợi, họ cho rằng: 600 năm trước ở Mỹ đã có cáp quang.

Địa điểm 3: ở Việt Nam, các nhà khảo cổ đào bở hơi tai mà không thấy gì. Họ khẳng định: 600 năm trước, ở Việt Nam đã có mạng… không dây.

Câu chuyện cười trên có lẽ nhiều người đã từng đọc qua, nghe thì có vẻ hài hước, nhưng nó nói lên 2 điều rất quan trọng trong giới khảo cổ:

1/ Nếu chỉ vài chục năm trước, chúng ta chưa biết tới công nghệ không dây, thì kết luận đối với địa điểm thứ ba sẽ là “xã hội sơ khai lạc hậu” chứ không phải “mạng không dây” tiên tiến cao cấp. Như vậy, phán xét khảo cổ là dựa trên so sánh với hiểu biết của khoa học đương thời.

2/ Nếu khi khai quật không tìm thấy dấu tích của máy móc hiện đại, liệu kết luận sẽ là một xã hội phát triển cao cấp hay nguyên thủy? Đánh giá khảo cổ còn dựa trên niềm tin chủ quan, cái khung nhận thức của nhà khảo cổ.

Dưới khung thời gian biểu của giới khảo cổ hiện nay, nhân loại chỉ phát triển theo một đường thẳng từ thấp lên cao, từ nguyên thủy săn bắt hái lượm, dần dần cho đến chúng ta hiện nay là “đỉnh cao” của nền văn minh. Nhưng hiện nay khoa học đã ngày càng phát triển, cộng với đó là những khám phá khảo cổ mới, cho thấy đã từng có những nền văn minh cổ đại phát triển vượt xa chúng ta, công nghệ của họ đúng là một loại “mạng không dây” như trong câu chuyện bên trên nhắc tới.

Dưới đây chúng ta sẽ bàn về 2 nền văn minh nổi tiếng và thảm họa mà họ đã phải đối mặt để thấy được cả một nền khoa học bị lãng quên.

Thành phố Atlantis và sự chuyển giao công nghệ

Hình vẽ mô phỏng thành phố Altantis, thủ phủ của lục địa Atlantis (ảnh: atlantisbolivia.org)

Câu chuyện xưa cũ về thành phố Atlantis chìm dưới đáy biển là một trong những truyền thuyết lâu đời nhất mà con người từng biết đến. Nhưng ở thời điểm hiện tại, chúng ta có thể khẳng định khá chắc chắn về sự tồn tại của Atlantis, kèm theo vị trí chính xác của thành phố cổ đại này.

Theo lời kể của nhà triết học Hy Lạp Plato, thời gian mà Atlantis bị hủy diệt là năm 9.600 TCN. Đây cũng là thời điểm xảy ra Trận lũ băng tan 1B (Meltwater pulse 1B). Khi đó, nước biển tăng mạnh vào cuối kỷ Dryas Trẻ, khi các tảng băng ở Bắc Âu và Bắc Mỹ rung chuyển và tan vào đại dương.

Vị trí của thành phố Atlantis – thủ phủ của lục địa Atlantis là ở bình nguyên Altiplano tại Bolivia. Altiplano là vùng đất không chỉ đáp ứng 24 tiêu chí về Atlantis mà nhóm các nhà khoa học tại hội nghị Milos Atlantis 2005 đưa ra, mà còn phù hợp với 50 đặc điểm mà Plato đề cập đến trong mô tả của của ông về Atlantis. [ 1 ]

Bình nguyên Altiplano ở Bolivia nằm trên dãy núi Andes ở Nam Mỹ (ảnh: atlantisbolivia.org)

Thành phố Altantis nằm trên phế tích Pampa Aullagas, ngay cạnh bình nguyên Altiplano, cách biển (hồ Poope) 2,5km (ảnh: atlantisbolivia.org)

Mảnh ghép vẽ bản đồ Thế giới Mới của Sebastian Münster, phiên bản thứ 2, năm 1961, có tên “Insula Atlantica” – “Đảo Atlantic” (ảnh: atlantisbolivia.org)

Chi tiết bản đồ của Münster chỉ rằng “Thế giới Mới” là “Đảo Atlantic”, cũng được biết đến như Brasil và Mỹ” (ảnh: atlantisbolivia.org)

Các di chỉ đá và hóa thạch sinh vật biển quanh hồ Titicaca, khu vực Peru và Bolivia đều cho thấy từng có một nền văn minh rất tiên tiến đã từng có mặt ở đây và bị nhấn chìm bởi Đại hồng thủy.

Như vậy, các bằng chứng về Atlantis đã khá đầy đủ.

Năm 9.600 TCN còn là thời điểm bắt đầu xây dựng một công trình cự thạch quy mô lớn còn lưu lại đến ngày nay. Đó là ngôi đền Gobekli Tepe ở Thổ Nhĩ Kỳ. Nếu xét trên khung thời gian biểu của giới khảo cổ, nó xuất hiện vào thời săn bắt hái lượm, trước khi xuất hiện thành thị hay nền văn minh. Vậy mà đây lại là một dự án quy mô lớn với nhiều vòng tròn đá khổng lồ, các khối cự thạch 40-60 tấn – chắc chắn phải có công nghệ, kỹ năng tổ chức cao cấp, quản lý nhân công, quy hoạch… Tất cả đều không phù hợp với bức tranh về thời đó.

(ảnh: Shutterstock)


Năm 9.600 TCN cũng là thời điểm nông nghiệp bỗng xuất hiện trong lịch khảo cổ của Thổ Nhĩ Kỳ, đã phát triển hoàn thiện một cách kỳ lạ dù trước đó không có dấu hiệu gì. Do vậy, ngôi đền Gobekli Tepe hẳn không phải là do ai đó bỗng dưng phát minh ra kiến trúc cự thạch và nông nghiệp giữa xã hội săn bắn hái lượm ở Thổ Nhĩ Kỳ khi đó. Theo nhà nghiên cứu nổi tiếng Graham Hancock, đây nhiều khả năng là một sự chuyển giao công nghệ từ những người sống sót trong một nền văn minh đã thành thục các kỹ năng cần thiết. Họ có thể đã dạy lại cho những người bạn ở vùng đất mới. [ 2 ]

Vậy phải chăng những người sống sót trong thảm họa Atlantis đã cố gắng ghi lại dấu tích hay thậm chí phục dựng lại nền văn minh của họ? Graham Hancock cho rằng, rất có thể là vậy. Họ đã không thành công lắm, nhưng họ cũng đạt được những kết quả nhất định. Họ đã có một công trình khổng lồ kỳ vĩ lưu lại thông điệp cho hậu thế và mang ngành nông nghiệp tới vùng đất hoang sơ.

Bài học của Atlantis

Theo lời kể của Plato, thành phố Atlantis từng sở hữu nền văn minh cao cấp, nền nông nghiệp phát triển, tàu của họ đi khắp thế giới. Người dân Atlantis từng rất cao thượng và tài ba, họ đã xây những công trình to lớn và phát triển kiến thức uyên thâm trong mọi lĩnh vực, trở nên rất thịnh vượng và hùng mạnh. Nhưng rồi, sự suy đồi đã len lỏi vào xã hội làm họ trở nên xấu xa và tham lam. Họ bắt đầu truy cầu và lợi dụng quyền lực trên thế giới.

Plato nhấn mạnh rằng: Atlantis đã không còn hưởng thụ thịnh vượng với sự điều độ nên có.

Sự ngạo mạn đã làm cho Atlantis trở nên quá tự mãn, để rồi sau đó vũ trụ đã làm cho nó sụp đổ. Đại hồng thủy và động đất đã dìm thành phố sâu xuống lòng đại dương.

‘Con người phải bắt đầu lại, như những đứa trẻ không có ký ức của quá khứ’ –

Rõ ràng, câu chuyện Atlantis là một bài học cho nền văn minh hiện đại. Chúng ta nên bỏ sự kiêu ngạo sang một bên và thôi tự mãn với các thành tựu công nghệ của mình.

Chúng ta thực sự có lẽ nên xem lại thái độ của mình đối với những câu chuyện lịch sử của tiền nhân. Giới hàn lâm đã quá nhanh chóng phủi tay và cho rằng họ đã hiểu biết tất cả mọi thứ, rằng chẳng còn gì bí ẩn trong câu chuyện đó. Nhưng tư duy đó sẽ ngăn chúng ta tìm hiểu sâu hơn. Chúng ta nên lắng nghe các manh mối của quá khứ dẫn đến các nền văn minh to lớn.


Không chỉ Atlantis, đối với các nền văn minh, các thành phố hay quốc gia trong lịch sử như Ai Cập cổ đại thời Cleopatra VII, Babylon cổ đại, Pompeii… [ 3 ], một mô-típ cứ lặp đi lặp lại:


Khi đạo đức suy đồi, xã hội sẽ bị diệt vong

Nếu đạo đức là một yếu tố tinh thần, thuộc về văn hóa, cách hành xử giữa người với người, vì sao sự sụp đổ của nền văn minh luôn gắn với đạo đức bị suy đồi? Câu chuyện về một nền văn minh cận đại hơn sẽ giúp lý giải câu hỏi này.

Đại Vũ trị thủy và sự chuyển giao công nghệ


Thời của Noah khi mà trận Đại hồng thủy xảy ra, theo tính toán dựa vào Kinh thánh, thì vào khoảng năm 2304 TCN (+/- 11 năm) [ 4 ]. Khi đó ở phương Đông cũng chính là thời của vua Thuấn và truyền thuyết Đại Vũ trị thủy. Đại Vũ sinh năm 2297 TCN, là người lập ra triều nhà Hạ. [ 5 ]

Đại Vũ cùng những người giúp đỡ ông trị thủy (ảnh: Internet)

Truyền thuyết nói rằng cách đây khoảng bốn ngàn năm, thần nước đã giận dữ và mở một cái lỗ lớn ở trên trời làm mưa đổ trút xuống như sông, dâng cao đến hai nghìn mét, làm ngập Trái Đất qua rất nhiều năm. Khi Đại Vũ lớn lên và nhìn thấy người dân đau khổ khủng khiếp vì nước lũ, ông đã quyết định kiềm chế nó. Đại Vũ đã bỏ 13 năm cố gắng kiềm chế lũ, đã bao bọc được một khoảng rất rộng lớn, làm cơ sở cho nền văn minh Trung Hoa sơ khai phát triển.

Lịch sử đã đi qua, chỉ lưu lại rất ít dấu vết để chúng ta có thể xác nhận chắc chắn những câu chuyện cổ. Nhưng những khám phá khảo cổ mới đã cung cấp thêm bằng chứng:

Hàng trăm truyền thuyết ở khắp thế giới đều giống nhau một cách kinh ngạc khi nói đến trận Đại hồng thủy. Tàn tích của con tàu Noah đã được tìm thấy tại Thổ Nhĩ Kỳ [ 6 ]

Con tàu nằm ở độ cao gần 2.000m thuộc dãy núi Ararat, gần biên giới Iran – Thổ Nhĩ Kỳ.

Dưới lòng đất có thể tồn tại những đại dương lớn, đây rất có thể chính là nơi nước đã rút đi sau Đại hồng thủy. [ 7 ]

Có nhiều thành phố cổ đại chìm dưới đáy đại dương, được tìm thấy khắp nơi trên Trái Đất. Chúng có tuổi thọ hàng nghìn năm, cho thấy chắc chắn chúng đã được xây dựng từ khi mà mực nước còn rất thấp. [ 8 ]

Ở Trung Quốc, bằng chứng về một trận lũ khủng khiếp vào thời đại của Đại Vũ cũng được tìm thấy. [ 9 ]

Như vậy, ít nhất chúng ta đã có một vài sự trùng khớp giữa khoa học hiện đại và các truyền thuyết cổ đại. Rốt cuộc chỉ là vấn đề người ta có tin hay không mà thôi.


Câu chuyện ở Trung Hoa nói lên rằng, ít nhất đã có một nhóm người ở các vùng núi cao nơi đây đã sống sót qua thảm họa. Trong khi ở phương Tây, nền văn minh phải phát triển lại từ đầu.

Câu chuyện Đại Vũ giải thích vì sao trong nền văn hóa phương Đông cổ đại, vẫn còn rất nhiều kiến thức cao thâm như Thái Cực, Hà Đồ, Lạc Thư, Chu Dịch, Bát Quái… mà đến khoa học hiện đại vẫn còn chưa lý giải hoàn toàn được.


Cũng giống như trường hợp của Atlantis, đó chính là những tinh hoa của khoa học trong nền văn minh trước, đã được những người sống sót truyền lại, một nền khoa học siêu thường , rất khác so với nền khoa học duy vật ngày nay. Nhưng thật ra đó chính là những lời dạy rất quen thuộc trong nền văn hóa phương Đông.

Nền khoa học siêu thường chú trọng đạo đức

Thời cổ đại mấy nghìn năm trước, người Trung Hoa thường giảng rằng khi làm việc cần phải bình tâm tĩnh khí, chú trọng tới điều hòa hơi thở, thậm chí người đi học ở trường cũng cần biết thiền định, chú trọng tu tâm dưỡng tính.

Các ngành các nghề thời Trung Hoa cổ đại cũng đều giảng phải coi trọng đạo đức. Trong lĩnh vực sáng tác văn học có tôn chỉ rằng, coi trọng đức là yêu cầu đứng đầu nhất. Ở phương diện sáng tác âm nhạc cũng coi đạo đức là cái gốc của nội tâm con người, âm nhạc là sự thăng hoa của đạo đức. Ở phương diện trị quốc cũng nêu cao việc phải coi trọng đức, tiết chế tài chính, tuyển dụng người hiền đức…

Ngày nay, có rất nhiều thành quả nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng, sức mạnh của đạo đức là không chỉ ở cảm nhận mà còn “chạm” đến được, bởi vì:


V ật chất và ý thức là một thể thống nhất . [ 10 ]

Phàm là lời nói hay việc làm mà phù hợp với chuẩn tắc đạo đức thì đều có thể sản sinh ra tác dụng tích cực đối với mọi vật chất trong thế giới này.


Người phương Đông cổ đại từ lâu đã đúc kết điều này thành những lời khuyên thực tế: “Tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển” . Nó mang hàm nghĩa vô cùng sâu sắc, và ngầm chỉ ra rằng điều then chốt để vượt qua bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào chính là ở tâm thái, vạn sự thành bại đều là ở tâm niệm, do đó cần luôn giữ cho tâm tĩnh lặng, hòa ái, từ bi… Vận mệnh của một người có thể được cải biến cho tốt hơn nếu “tâm” của người đó thay đổi tích cực hơn.

Hiện nay nền khoa học phương Tây đang ở ngưỡng cửa nghiên cứu về ý thức và các siêu năng lực của con người.

Bắt đầu từ “cuộc cách mạng lượng tử” khoảng 70 năm về trước, nhiều nhà khoa học đã tìm ra sự tương đồng đáng ngạc nhiên giữa các kết quả nghiên cứu của họ và một số bí ẩn hay gặp trong tôn giáo. Heisenberg, Bohm, Schrodinger, Eddington, Einstein – những nhà khoa học nổi tiếng – tất cả đều có quan điểm rằng thế giới là huyền bí và thuộc về tinh thần.

Theo nhà nghiên cứu tâm thần nổi tiếng David Hawkins (Hoa Kỳ), tùy theo cảnh giới tinh thần mà mỗi người có một tần số rung động khác nhau, từ 1-1000 Hz. Sự đau khổ, tuyệt vọng và oán thán có tần số thấp, khiến người ta mang bệnh, và ngược lại, hòa ái từ bi có tần số cao khiến mọi người khỏe mạnh, hạnh phúc. Điều này chẳng phải một cách nói khác của câu “tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển”?

Các cảnh giới khác nhau có năng lượng khác nhau

Như vậy, khoa học ngày nay đã đủ để lý giải một số khía cạnh trong những kiến thức cổ xưa. Nhưng để tiến xa hơn, chúng ta còn phải xét tới một bộ phận rất quan trọng mà nhiều tín ngưỡng đều nhắc đến:

Con mắt thứ ba – phương tiện của khoa học cổ đại

Để nhận thức vũ trụ, người xưa đã biết khai mở “con mắt thứ ba” – vốn là một bộ phận có sẵn trong cơ thể con người. Con mắt này, vốn nằm tại thể tùng quả trong bộ não, có khả năng vượt xa đôi mắt thông thường.

Thể tùng trong bộ não người (ảnh: Telese Winslow)

Đã từ lâu, các nhà khoa học đã nhận ra sự tương đồng giữa thể tùng và con mắt. Nhiều người trong số họ cho rằng thể tùng chính là một con mắt thoái hóa. Năm 1919, Frederick Tilney và Luther Fiske Warren trong một báo cáo đã công bố những đặc điểm tương đồng giữa thể tùng và con mắt người, khiến nó nhạy cảm với ánh sáng cũng như có các khả năng thị giác khác.

Cuốn tự truyện có tựa đề “The Third Eye” (Con mắt thứ ba) của lạt ma Tây Tạng Lobsang Rampa đã diễn tả cuộc phẫu thuật được tiến hành tại vị trí ấn đường (chỗ giao của hai hàng lông mày) của ông, giúp khai mở một số năng lực siêu thường chưa từng có trước đây.


Những người thực hành tu luyện còn cho rằng con mắt thứ ba của trẻ em từ 6 tuổi trở xuống rất dễ được khai mở và nhìn rất rõ ràng do các bé rất ngây thơ và trong sáng. Thanh niên trưởng thành rất khó khai mở mắt thứ ba do ham muốn vào “thất tình lục dục” của họ là rất lớn. Giải thích này khá trùng hợp với phát hiện của giới khoa học: trẻ em dưới 6 tuổi thì thể tùng ít bị vôi hóa, còn thanh niên trưởng thành hầu hết có thể tùng bị vôi hóa. [ 11 ] Điều này có thể lý giải tại sao chỉ các nhà sư đắc đạo, các lạt ma Tây Tạng hay những người tu luyện tâm tính một cách chân chính mới có thể sở hữu những năng lực siêu thường.


Những người thực hành tu luyện có các phương pháp khai mở con mắt này. Khi đó, tùy theo đặc điểm của từng người mà họ có thể có thể xuất hiện những năng lực đặc biệt như: nhìn thấy các cảnh tượng từ xa (dao thị), nhìn thấy được quá khứ và tương lai (túc mệnh thông), thậm chí đọc được ý nghĩ người khác (tha tâm thông)… Trong các câu chuyện cổ của Phật giáo đều có ghi lại các khả năng này, mà hiện nay nhiều nghiên cứu khoa học cũng đã xác nhận được. [ 12 ]

Chính vì sở hữu những năng lực siêu thường như vậy, nên thời Trung Hoa cổ đại, kiến thức đã đạt đến mức rất cao và uyên thâm.

3 quyển sách “Thiên – Địa – Nhân”

Cổ thư còn ghi chép lại, các kiến thức cao thâm được sáng tạo ra trong thời cổ đại Tam Hoàng Ngũ Đế mà Đại Vũ là vị vua cuối cùng của thời đó. Tam Hoàng chỉ Phục Hy, Nữ Oa và Thần Nông. Ngũ Đế là Hoàng Đế, Viêm Đế, Nghiêu, Thuấn, Vũ.

Thần Nông, thủy tổ của nông nghiệp và Đông y (tranh vẽ qua Epoch Times)

Có thể kể tới 3 quyển sách “Thiên – Địa – Nhân” xuất hiện trong thời đại này mà còn truyền tới ngày nay. [13]

“Kinh Dịch” được ví là Thiên Thư, cuốn sách này có thể tương thông với Trời, Thần và tương lai, từ cổ chí kim nó đã triển hiện khả năng dự đoán thần kỳ, chứa đựng nội hàm bác đại tinh thâm. Thiên Đạo được giảng trong sách chính là khởi nguồn của văn hóa, nó chỉ ra quy luật của vũ trụ, trong chớp mắt có thể nhìn thấu thế gian, 64 quẻ trong Kinh Dịch bao quát hết thảy mọi thứ trên thế giới, bao gồm cả sự phát triển của công nghệ thông tin ngày nay.

Chia sẻ Facebook