Tín hiệu tích cực từ xuất khẩu mây, tre, cói, thảm

Chia sẻ Facebook
13/04/2024 06:58:47

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 3 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói, thảm đạt 212,07 triệu USD, tăng 28,3% so với cùng kỳ năm 2023.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong tháng 3/2024, nhóm mặt hàng mây, tre, cói, thảm lập kỷ lục cao nhất trong 2 năm qua, đạt 85 triệu USD, tăng 79,9% so với tháng 2/2024 và tăng 35,4% so với cùng kỳ năm 2023.


Theo báo Công Thương , đây là tín hiệu đáng mừng bởi trong tháng 2, nhóm sản phẩm này giảm mạnh do thời gian nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài, chỉ đạt 47,26 triệu USD, giảm 40,7% so với tháng 1/2024; giảm 16,7% so với cùng kỳ năm 2023.

Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), ngoại trừ khoảng thời gian tháng 2, sản phẩm mây, tre, cói, thảm tăng trưởng đều đặn trong đầu năm 2024. Trong kỳ từ ngày 5/3 đến 19/3, sản phẩm này đạt kim ngạch 37,83 triệu USD, tăng 14,5% so với kỳ trước (từ ngày 20/2 đến 5/3).

Trước đó, tính chung cả năm 2023, nhóm hàng này đã thu về cho Việt Nam hơn 733 triệu USD, giảm 10,4% so với cùng kỳ năm 2022. Mức giảm so với năm 2022 dần thu hẹp qua những tháng cuối năm cho thấy sự khởi sắc trong xuất khẩu.

Về cơ cấu, kim ngạch xuất khẩu thảm đạt 22,89 triệu USD, tăng 20,7% so với kỳ trước; lục bình đan đạt 5,45 triệu USD, tăng 26,8%; tre đan đạt 2,77 triệu USD, tăng 4,4%; cói đan đạt 2,12 triệu USD, tăng 2,7%; mây đan đạt 1,53 triệu USD, tăng 28,6%.

Trong kỳ vừa qua, sản phẩm mây, tre, cói, thảm xuất khẩu sang 59 thị trường; trong đó chủ yếu là xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 14,48 triệu USD, tăng 8,4%; Vương quốc Anh đạt 2,75 triệu USD, tăng 30,4%; Nhật Bản đạt 2,26 triệu USD, tăng 3,1%; Tây Ban Nha đạt 2,19 triệu USD, tăng 9,1%...

Nhờ đóng góp của sản phẩm mây, tre, cói, thảm, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong quý I/2024 đạt 3,4 tỷ USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2023. Hiện đơn hàng tại nhiều doanh nghiệp đã phục hồi tới 80 - 90%. Có doanh nghiệp đã có đơn hàng đến giữa năm 2024.

Ảnh minh họa.

Theo nhận định chung, cơ hội phát triển cho ngành hàng mây tre đan của Việt Nam còn rộng mở. Khả năng chiếm lĩnh 10 - 15% thị phần trên thị trường thế giới là hoàn toàn khả thi. Theo các chuyên gia, quy mô thị trường tre toàn cầu dự kiến sẽ đạt 82,90 tỷ USD vào năm 2028. Dự kiến sẽ mở rộng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm là 5,7% từ năm 2021 đến năm 2028 với các xu hướng nổi bật.

Việt Nam sở hữu diện tích tre rất lớn, lên đến 1,5 triệu héc-ta, phân bố ở hầu hết các tỉnh trên cả nước, trong đó có 37/63 tỉnh có diện tích trên 10.000ha. Tài nguyên tre Việt Nam phong phú và đa dạng với hàng trăm loài, trong đó có một số loài kinh tế cao như: luồng, lùng, trúc sào, lồ ô, bương, tầm vông, tre gai… Cả nước có khoảng trên 1.000 làng nghề mây tre đan, chiếm 24% tổng số các làng nghề trong cả nước. Trong đó, khu vực phía Bắc và miền Trung tập trung nhiều về các sản phẩm mây tre lá và cói, còn khu vực Tây Nam Bộ tập trung nhiều các sản phẩm về bèo tây, lá buông. Đây sẽ là lợi thế để sản phẩm thủ công mây, tre, cói phát triển trên thị trường thế giới.

Mặc dù có nhiều lợi thế về nguyên liệu cũng như nguồn nhân lực, song hiện nay nếu so với những mặt hàng xuất khẩu thu tỷ USD, xuất khẩu hàng mây, tre, cói của Việt Nam còn khá khiêm tốn. Tuy nhiên, theo các chuyên gia với việc thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA) như: RCEP, CPTPP, EVFTA… mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu cho các sản phẩm mây, tre, cói, thảm của Việt Nam; nhất là những thị trường có nhu cầu lớn như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản… Trong khi đó, nghề mây tre đan gần như bị xóa sổ ở các nước phát triển do không thể ứng dụng dây chuyền công nghiệp để cơ giới hóa. Đây là cơ hội vàng cho các làng nghề truyền thống Việt Nam.

Một số thị trường mới nổi những năm gần đây như Trung Quốc, Tây Ban Nha, Nga, Australia… đang có xu hướng nhập khẩu nhiều các mặt hàng mây tre đan từ Việt Nam. Cụ thể, những năm gần đây, Trung Quốc và Tây Ban Nha đã gia tăng nhập khẩu các mặt hàng mây tre đan Việt Nam với mức tăng đáng kể, đó là cơ hội để cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như mây tre đan, cói, thảm có cơ hội tăng tốc.


Theo báo Đại Đoàn Kết , mặc dù có nhiều lợi thế phát triển, nhưng hiện các làng nghề nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng vẫn đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức về áp dụng khoa học kỹ thuật; thiếu lao động trẻ có trình độ tại các làng nghề không nhiều; một số kỹ thuật truyền thống tinh xảo nguy cơ mai một bị thất truyền; không có sự liên kết giữa các làng nghề; thiếu kiến thức về thị trường tiêu thụ...

Ông Lê Bá Ngọc - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ Việt Nam (Vietcraft) cho rằng, xu hướng tiêu dùng và sử dụng sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã thay đổi, đòi hỏi quy trình sản xuất phải minh bạch, rõ ràng, từ vùng nguyên liệu đến cả quá trình làm ra sản phẩm. Theo đó, có thể nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm làng nghề thông qua thiết kế đẹp hơn, áp dụng công nghệ thông tin giúp sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, có nhiều thông điệp hơn về giá trị nhân văn và giá trị văn hóa.

Cũng theo ông Ngọc, nếu chúng ta đầu tư vào phát triển hệ thống thiết kế một cách bài bản cho ngành thủ công ở Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu cho ngành không chỉ dừng lại ở con số hơn 3 tỷ USD như hiện nay, mà có thể sớm đạt được tốc độ tăng trưởng không dưới 30% hằng năm và đạt con số 10 tỷ USD đến năm 2030.


Minh Hoa (t/h)

Chia sẻ Facebook