Tìm hiểu về nguồn gốc kỹ thuật in ấn tại phương Đông

Chia sẻ Facebook
06/04/2023 12:21:47

Kể từ khi ra đời vào thời nhà Đường, kỹ thuật in ấn sử dụng phương pháp in đơn sắc, thường là màu đen, đôi khi là màu đỏ hoặc xanh lam.


Kỹ thuật in ấn có độ hoàn thiện cao từ sớm nhất là in mộc bản, tức là in bằng âm bản khắc gỗ. Nó xuất hiện lần đầu vào khoảng 220 năm trước Công Nguyên. Bản in sớm nhất còn lại đến nay là bản in kinh Phật đời nhà Đường: Kinh Kim Cương.


Trên bản in Kinh Kim Cương này có ghi rõ “Năm thứ 9 Hàm Thông” tức năm 868, “Ngày 15 tháng 4, Vương Kiệt vâng mệnh song thân in ra để hoằng Pháp” . Quyển kinh sách này có dạng cuộn, dài 4877mm, rộng 244mm. Ngoài quyển kinh có bức tranh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp tại Jetavanavihara (một thánh địa Phật giáo nổi tiếng), phần sau là toàn văn của Kinh Kim Cương. Cuốn sách này được khắc rất tinh xảo, nét chữ mộc mạc, chắc chắn, nét khắc khéo léo, mực in trên cuốn sách đậm, đều, rõ ràng, nổi bật.

Bản in Kinh Kim Cương còn được lưu giữ lại. (Ảnh: British Library’s Online Gallery, Public Domain)


Một bản in kinh Phật cổ khác là Kinh Chú Đại Bi, là một trong những bản in kinh Phật giáo Tây Tạng sớm nhất trên thế giới hiện còn tồn tại. Kinh Chú dài 34cm, rộng 31cm, được in trên loại giấy làm từ tơ tằm nổi tiếng. Đặc trưng của bản in này là mỏng và trong mờ, độ đàn hồi cao. Chính giữa bản in có một ô vuông nhỏ, giữa ô vuông có in hình một vị Bồ Tát sáu tay, tay cầm các loại Pháp khí. Xung quanh khắc những vòng tròn chữ Phạn, bên ngoài các chữ Phạn có hai lớp đường viền, bốn góc và các bên khắc tượng Bồ Tát, ở giữa có hình ảnh vật cúng tế. Phía bên phải của bản khắc Kinh Chú có cột chữ bằng tiếng Hán: “Cuốn Kinh Chú được in và bán ở phường Long Trì, huyện Thành Đô, phủ Thành Đô đời nhà Đường” , đây là bản in cuối đời nhà Đường.

Bộ Kinh Kim Cương và Kinh Chú Đại Bi in vào đời Đường này là những bản in sớm nhất vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay, có thể gọi là bảo vật quý hiếm trong lịch sử in ấn cổ đại.

Nguồn gốc

Kỹ thuật in ấn nguyên bắt nguồn từ con dấu và in dập thời cổ đại. Các con dấu thời Chiến Quốc hầu hết là các chữ chìm khắc vào trong ấn. Đến thời Lưỡng Hán (Đông Hán và Tây Hán) chữ khắc nổi dần dần trở nên phổ biến. Từ việc sử dụng con dấu, người xưa đã phát minh ra phương pháp khắc chữ nổi viết ngược để tạo ra chữ viết xuôi.


Kỹ thuật in dập bắt đầu xuất hiện vào thời Đông Tấn, người xưa dùng giấy ướt ép chặt lên bia đá, đợi giấy khô rồi dùng mực chà lên các chữ viết hay hình vẽ, gọi là “dập đá” . Kỹ thuật in dập đá là chữ chìm viết xuôi, tức bản in ra là chữ trắng trên nền đen, còn dùng con dấu chữ khắc nổi thì cho ra bản in là chữ đen trên nền trắng. Sau này phương pháp khắc chữ chìm viết xuôi mô phỏng theo con dấu đã được thay thế bằng phương pháp khắc chữ nổi viết ngược, bôi mực đen lên con dấu rồi đóng lên mặt giấy, gọi là kỹ thuật khắc in.

Khắc in là sự kết hợp hai phương pháp con dấu và in dập, kỹ thuật này bắt nguồn từ thời nhà Đường.

Bối cảnh văn hóa của kỹ thuật in ấn

Sau khi nền văn hóa rực rỡ thời Tây Hán kết thúc, văn hóa Trung Hoa vốn tôn sùng Nho giáo và Đạo giáo bắt đầu du nhập tư tưởng Phật giáo. Vào năm Vĩnh Bình thứ 10 triều đại Đông Hán (năm 67), Hán Minh Đế cử sứ thần triều đình đi về phía Tây tới nước Thiên Trúc lễ Phật, từ đó Phật giáo bắt đầu truyền đến phía Đông, tức truyền vào Trung Nguyên. Sự truyền bá của Phật giáo ở Đông Thổ vừa vặn cùng thời với sự xuất hiện của nghề làm giấy.

Vào năm 105, Thái Luân phát minh ra giấy Thái Hầu, từ đây thời đại dùng vải lụa để chuyển tải chữ viết đã tiến sang thời đại dùng giấy để chuyển tải chữ viết, phương thức truyền bá văn hóa cũng thay đổi từ việc giáo dục một thầy một trò của thời kỳ dùng vải lụa sang giáo dục rộng rãi vào thời kỳ dùng giấy. Các phương tiện in ấn cơ bản đã được hoàn thiện.

Văn hóa Đôn Hoàng trong thời Đại Đường bước vào thời kỳ hoàng kim, đây là kho báu chứa đựng tinh hoa của nền văn hóa Trung Hoa. Việc phát minh ra kỹ thuật in ấn vào thời nhà Đường có nguyên nhân sâu xa từ sự hồng truyền các kinh sách Phật giáo. Vào năm Trinh Quán thứ nhất (năm 627), hòa thượng Huyền Trang đi đến nước Thiên Trúc ở phía Tây để cầu Pháp thỉnh kinh, sau 18 năm ông trở về Trường An, ở lại chùa Hoằng Phúc để dịch kinh Phật. Đường Huyền Trang từng in rất nhiều tranh Phổ Hiền Bồ Tát và phân phát cho các tín đồ. Vào năm Đường Vĩnh Huy thứ ba (năm 652), Huyền Trang tấu xin vua cho xây dựng Nhạn Tháp để cất giữ kinh và tranh. Trong cuộc đời mình, hòa thượng Huyền Trang đã dịch khoảng 75 bộ kinh Phật, tổng cộng là 1.335 quyển.

Giải thích phương pháp in ấn


Trong những năm Khánh Lịch thời Tống Nhân Tông (năm 1041-1049), Tất Thăng phát minh ra loại bản sắp chữ bằng đất sét có thể di chuyển được. Trong sách Mộng Khê Bút Đàm có ghi chép rằng “Phương pháp in ấn này sử dụng chữ khắc bằng đất sét, mỏng như cạnh đồng tiền, mỗi chữ là một con dấu, dùng lửa nung cho cứng. Đầu tiên chuẩn bị một tấm thép, trên đó có một lớp kết dính bằng nhựa thông hoặc sáp ong trộn với bột giấy. Nếu chỉ in ba hoặc hai bản thì cách in này không đơn giản, nhưng nếu in hàng chục hàng trăm nghìn bản thì sẽ cực kỳ nhanh chóng”.

Chữ in rời bằng đất sét dễ hư hỏng, không dùng lâu được. Trong những năm Đại Đức thời vua Nguyên Thành Tông triều đại nhà Thanh (năm 1297-1308), Vương Trinh đã tạo ra một bộ chữ rời bằng gỗ, hơn nữa còn thiết kế ra một cái giá quay vòng để sắp chữ. Loại chữ rời này được sắp lên giá chữ theo vần, khi sắp chữ thì bánh xe quay, người xếp chữ có thể ngồi để chọn chữ.

Kể từ khi ra đời vào thời nhà Đường, kỹ thuật in ấn sử dụng phương pháp in đơn sắc, thường là màu đen, đôi khi là màu đỏ hoặc xanh lam. Ngoài in văn tự, một lĩnh vực ứng dụng khác của in xen màu là in ảnh. Lúc đầu dùng mấy loại màu để tô lên một tấm chạm khắc, chẳng hạn để in một bức tranh ba màu thì màu nâu đỏ tô trên cành cây, màu xanh lá cây vẽ trên lá và màu hồng vẽ trên hoa. Nhưng in theo cách này thì màu sắc dễ bị lẫn lộn không rõ. Vì vậy người ta lại dựa theo mức độ đậm nhạt và sự tương phản màu trong bản vẽ gốc mà phân loại màu sắc, khắc thành nhiều tấm in, sau đó dựa theo màu sắc mà in xen màu hoặc in chồng màu, để có được màu sắc như ý. Bộ sách Thập Trúc Trai họa phổ vào những năm đầu niên hiệu Thiên Khải, Triều Minh (Minh Hi Tông 1621 – 1627) không chỉ có màu sắc tươi sáng, mà còn nổi bật từng đường nét của mây và sóng nước. Đến lúc này thuật in ấn cổ đại đã bước vào giai đoạn hoàn thiện.

Tứ đại phát minh của Trung Quốc cổ đại: Kỹ thuật in ấn

Đăng trên ChanhKien.org

Tác giả: Lữ Văn Thiên


Mời xem video :

Chia sẻ Facebook