Thị trường nông sản tuần qua: Giá gạo Việt chạm mốc cao nhất của 16 tháng
Trong tuần này, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 7/2021.
iá gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức 438 USD/ounce, so với mức 425-430 USD/tấn trong tuần trước. Một thương nhân tại tỉnh An Giang thuộc Đồng bằng sông Cửu Long cho hay giá gạo tăng trong tuần này là do nguồn cung từ Đồng bằng sông Cửu Long bị thắt chặt và với mức giá hiện tại, giá gạo Việt Nam hiện cao hơn so với các nước xuất khẩu cùng ngành khác.
Giá gạo đồ 5% tấm của nước xuất khẩu hàng đầu Ấn Độ không đổi ở mức 373-378 USD/tấn giữa lúc nhu cầu từ các nước nhập khẩu tốt.
Nguồn cung để xuất khẩu khá hạn chế trong bối cảnh Chính phủ Ấn Độ đang tích cực mua lúa vụ mới từ nông dân. Ấn Độ đã tăng giá mua lúa vụ mới từ nông dân địa phương thêm 5,2%, mức tăng lớn nhất trong 5 năm.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo sản lượng của Bangladesh sẽ giảm 1% so với năm ngoái xuống 35,6 triệu tấn trong niên vụ 2022-23 do lũ lụt. Bangladesh trước đây là nhà sản xuất gạo lớn thứ ba thế giới, nhưng nay lại phải thường xuyên nhập khẩu gạo để đối phó với tình trạng thiếu hụt do thiên tai gây ra.
Giá gạo 5% tấm của Thái Lan được giao dịch ở mức 419-425 USD/tấn, so với mức 410-425 USD/tấn trong tuần trước. Các nhà giao dịch cho hay biến động giá là do tỷ giá hối đoái, trong khi nhu cầu ở nước ngoài vẫn ổn định và không có giao dịch lớn nào diễn ra.
Về thị trường nông sản Mỹ, trong phiên giao dịch 25/11, giá các mặt hàng nông sản kỳ hạn trên sàn giao dịch Chicago, Mỹ (CBOT) giao dịch ngược chiều nhau, trong đó giá ngô và đậu tương tăng, còn giá lúa mỳ giảm.
Chốt phiên này, giá ngô giao tháng 3/2023 tăng 5 xu Mỹ (0,75%) lên 6,7125 USD/bushel, giá đậu tương giao tháng 1/2023 tăng 0,25 xu Mỹ (0,02%) lên 14,3625 USD/bushel. Giá lúa mỳ giao tháng 3/2023 giảm 16,5 xu Mỹ (2,03%) xuống 7,97 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Ngô dẫn đầu xu hướng tăng giá, với hợp đồng giao tháng 3/2023 tiến gần đến mức kháng cự 6,75-6,85 USD/bushel. Đậu tương kỳ hạn giao tháng 1/2023 đã thử nghiệm ở mức kháng cự 14,50 USD/bushel. Khối lượng giao dịch giảm do kỳ nghỉ lễ Tạ ơn.
Trong khi đó, Brazil đang chuẩn bị cho vụ thu hoạch đậu tương lớn kỷ lục khi thời tiết mưa gần đây và dự kiến kéo dài. Công ty nghiên cứu AgResource có trụ sở tại Chicago cho hay giá ngũ cốc của Argentina tăng lên, do thời tiết khô hạn, là cơ hội để bán ra giữa lúc nhu cầu lúa mỳ/ngũ cốc làm thức ăn chăn nuôi trên thế giới đang chậm lại.
Doanh số xuất khẩu của Mỹ trong tuần kết thúc vào ngày 17/11 ở mức 18,8 triệu bushel lúa mỳ, 72,8 triệu bushel ngô và 25,4 triệu bushel đậu tương. Đối với các niên vụ tương ứng cho đến nay, Mỹ đã bán được 488 triệu bushel lúa mỳ, giảm 7% so với cùng kỳ năm ngoái; ngô 699 triệu bushel, giảm 48%; và 1,345 triệu bushel đậu tương, tăng 1,3%.
Các thương nhân dự đoán USDA sẽ hạ mục tiêu xuất khẩu ngô niên vụ 2022-2023 trong báo cáo tháng 12/2022 vì Hành lang Xuất khẩu Ukraine sẽ mở cửa thêm 120 ngày nữa.
Miền bắc và miền trung Brazil có thể có mưa hàng ngày trong 10 ngày tới. Nam Brazil và Argentina khô ráo trong 5-6 ngày tới trước khi có mưa rào trở lại trong thời gian ngắn. Argentina sẽ cần có mưa trong tháng 12.
Còn về thị trường cà phê, kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London nối tiếp xu hướng tăng. Giá cà phê Robusta giao tháng 1/2023 tăng 15 USD lên 1.857 USD/tấn và giá cà phê Robusta giao tháng 3/2022 tăng 9 USD lên 1.821 USD/tấn. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York cùng xu hướng tăng. Giá cà phê Arabica giao tháng 3/2022 tăng 2,30 xu Mỹ lên 165,05 xu Mỹ/lb và giá cà phê Arabica giao tháng 5/2022 tăng 2,20 xu Mỹ lên 165,15 xu Mỹ/lb (1lb=0,4535 kg). Khối lượng giao dịch thấp hơn nhiều so với mức trung bình.
Giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây nguyên tăng thêm 200 – 300 đồng, lên dao động trong khung 40.600 - 41.100 đồng/kg.
Giá cà phê trên hai sàn kỳ hạn trở lại xu hướng tăng do các quỹ đầu cơ quay lại các thị trường mua vào khi báo cáo của USDA điều chỉnh giảm sản lượng niên vụ cà phê 2022/2023 của nhiều nước sản xuất chính vì thời tiết bất lợi. Theo báo cáo, sản lượng Brazil được điều chỉnh giảm 2,6% xuống 62,6 triệu bao và sản lượng Colombia giảm 3,1% xuống 12,6 triệu bao.
USDA cũng điều chỉnh giảm sản lượng cà phê của Việt Nam khoảng 2,2% xuống 30,22 triệu bao, trong đó có 29,20 triệu bao cà phê Robusta, giảm 4,20% so với niên vụ trước và 1,02 triệu bao cà phê Arabica, tăng 7,27% so với niên vụ trước. Trong khi sản lượng cà phê của Indonesia không thay đổi, vẫn ở mức 11,35 triệu bao, bao gồm 10 triệu bao Robusta và 1,35 triệu bao Arabica .
Kịch bản nào cho giá cà phê trong năm 2023?
Theo dự báo của Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, giá cà phê sẽ tiếp tục diễn biến theo những thay đổi của cung – cầu. Trong năm 2023, các ngân hàng trung ương lớn vẫn quyết định theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm đưa lạm phát về mức mục tiêu, bức tranh kinh tế thế giới sẽ tiếp tục nhuốm màu ảm đạm. Kéo theo đó là nhu cầu tiêu thụ đối với cà phê sẽ khó có thể hồi phục và thậm chí là sụt giảm mạnh trong năm tới.
Trong tháng 10, IMF đã cắt giảm dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 từ mức 3,6% hồi tháng 4 xuống còn 2,7%, mức tăng trưởng này thấp hơn mức dự đoán 3,2% cho năm 2022. Trong đó, khu vực đồng tiền chung Euro và Mỹ là 2 thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất thế giới đều có mức tăng trưởng khá khiêm tốn lần lượt là 0,5% và 1%.
Tuy nhiên, theo các số liệu cập nhật mới nhất về cà phê niên vụ 2022/2023 của USDA, 2 quốc gia xuất khẩu Arabica hàng đầu là Brazil và Colombia đều điều chỉnh giảm sản lượng so với báo cáo hồi giữa năm, điều này có thể giúp giá cà phê hạn chế đà suy yếu trong thời gian ngắn tới.
Với Brazil, USDA đã cắt giảm sản lượng niên vụ hiện tại của nước này xuống còn 62,6 triệu bao, giảm 1,7 triệu bao so với báo cáo hồi tháng 06. Sản lượng suy yếu kéo theo xuất khẩu cũng giảm 2,4 triệu bao, về mức 36,65 triệu bao, thấp nhất trong 04 năm gần đây. Tại Colombia, sản lượng được dự báo sẽ giảm nhẹ 3,1% so với báo cáo trước đó, về mức 12,6 triệu bao và xuất khẩu cung bị cắt giảm 2,3% so với dự đoán trước đó.
Trong khi đó, nguồn cung tại các nước xuất khẩu Robusta lại tích cực hơn, có thể là yếu tố gây áp lực lên giá trong thời gian tới. Dù sản lượng vẫn được dự báo sẽ suy yếu nhẹ so với báo cáo trước, ở mức 30,22 triệu bao, xuất khẩu tại Việt Nam được ước tính sẽ tăng nhẹ lên 27,65 triệu bao. Tại Indonesia, nước xuất khẩu Robusta lớn thứ 3 thế giới, cả sản lượng và xuất khẩu đều được USDA dự báo tích cực hơn với mức tăng lần lượt là 7% và 1,5%.
Trong dài hạn, thị trường sẽ phản ứng mạnh hơn với những dự đoán về sản lượng cà phê trong niên vụ 2023/2024 của các nước xuất khẩu hàng đầu. Dù còn khá sớm để dự đoán chính xác nguồn cung trong niên vụ tới, thị trường cũng có những kỳ vọng tích cực hơn so với niên vụ trước khi La Nina sẽ bớt khắc nghiệt. Tại Brazil, dù có những quan điểm trái chiều về sản lượng cà phê trong niên vụ tới, giới phân tích đều nhận định rằng, đầu ra ít nhất sẽ ngang bằng với niên vụ hiện tại.
Dự báo bi quan nhất là giá cà phê tiếp tục xấu đi khi suy thoái ngày càng cận kề. Dưới áp lực từ việc nhu cầu tiêu thụ tiếp tục suy yếu do lo ngại suy thoái kinh tế, giá cà phê thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ nối tiếp xu hướng giảm. Tuy nhiên, đà giảm của cà phê sẽ được điều chỉnh chậm lại do nguồn cung không thực sự tích cực như những gì thị trường đã và đang kỳ vọng. Với những cơn mưa đá xuất hiện tại Minas Gerais vào cuối tháng 10 và đầu tháng 11, khiến hơn 50.000 ha cà phê tại Brazil bị hư hại và thị trường có phần dao động với kỳ vọng trước đó. Cùng với đó, 2023 là năm mất mùa của cà phê theo chu kỳ 2 năm được mùa một lần tại Brazil, sẽ là nhân tố hạn chế lại đà giảm do nhu cầu suy yếu gây ra đối với giá mặt hàng này.
Như vậy, kịch bản chung đặt ra cho giá cà phê là tiếp tục đi xuống nhưng đà giảm sẽ được điều chỉnh so với hiện tại. Cụ thể, giá Arabica trên Sở ICE US có thể được giao dịch tại vùng giá 120 – 150 cents, giá Robusta trên Sở ICE EU cũng sẽ giảm chậm lại và giao động trong khoảng 1.600 – 1.800 USD và giá nội địa tại Việt Nam sẽ biến động trong tầm giá từ 35.000 đến 38.000 đồng/kg.
Hương Anh (tổng hợp)