Tận dụng ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Canada
Nếu tính theo số liệu của nước sở tại, Canada là thị trường xuất khẩu quan trọng thứ 5 của Việt Nam (sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản).
Canada - thị trường tiềm năng của hàng Việt
Báo Công Thương đưa tin, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2023 của Việt Nam sang Canada đạt 1.687 tỷ USD, giảm 17,1% so với cùng kỳ năm 2022 (tốc độ sụt giảm đã thấp hơn các tháng trước). Tuy nhiên, theo số liệu nước sở tại công bố ngày 23/5/2023, chỉ tính đến hết tháng 3/2023, Việt Nam đã xuất khẩu 2.187 tỷ USD.
Tuy nhiên, mức độ tăng trưởng ghi nhận trong số liệu nước sở tại cho thấy, xuất khẩu của Việt Nam chưa bị ảnh hưởng và sẽ ít bị ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế tại Canada. Các mặt hàng điện tử, điện máy, lò phản ứng, nồi hơi, thiết bị quang học, ô tô và phụ tùng tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng tốt.
Tính từ đầu năm đến nay, Top 10 nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Canada vẫn giữ được mức tăng trưởng kim ngạch hai chữ số (trừ thuỷ sản giảm 32,8%; nội thất giảm 8,1% và đồ chơi và đồ thể thao giảm 4,%): điện tử, điện thoại di động tăng 28,9%; da giày tăng 82,8%; quần áo dệt kim tăng 12,4%; quần áo không dệt kim tăng 29,8%; lò phản ứng nồi hơi tăng 16,7%; các sản phẩm từ da tăng 75,7%; thiết bị quang học tăng 14,2%.
Tuy nhiên, một số mặt hàng xuất khẩu quan trọng khác của Việt Nam đã bắt đầu ghi nhận mức suy giảm như các loại hạt và quả hạch giảm 39,5%; sản phẩm nhựa giảm 16,6%; cao su và các sản phẩm từ cao su giảm 4,4%; sắt thép giảm 77,8%; các sản phẩm từ sắt thép giảm 4,5%; các sản phẩm từ nhôm giảm 27,7%; các sản phẩm gốm sứ giảm 15,2% so với cùng kỳ năm trước.
Tỉ lệ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vào Canada trong 3 tháng đầu năm 2023 cao hơn rất nhiều so với tỉ lệ tăng trưởng nhập khẩu của Canada từ các nước trên thế giới (9,3%) và cao hơn tất cả các quốc gia xuất khẩu chủ yếu trong ASEAN như: Indonesia, Malaysia, Thái Lan….
Trong Top 10 đối tác thương mại hàng đầu của Canada, Việt Nam ghi nhận tốc độ tăng trưởng xuất khẩu lớn thứ nhất nhưng tụt hạng vị trí đối tác xuất khẩu xuống thứ 8.
Nhận diện thách thức
Tạp chí Hải quan dẫn phân tích của bà Trần Thu Quỳnh, đại diện Tham tán thương vụ Việt Nam tại Canada, ở góc độ sở tại, yếu tố cản trở xuất khẩu lớn nhất đối với Việt Nam là năng lực vận tải và logistics nội địa và thiếu hụt lao động khiến giá xuất khẩu của Việt Nam kém cạnh tranh so với các nước láng giềng Nam Mỹ.
Mặt khác, việc Canada duy trì chính sách tỉ giá thấp để thúc đẩy xuất khẩu cũng là bất lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vì giá của Việt Nam sẽ trở nên đắt hơn năm 2022 nếu tính bằng đồng nội tệ.
Đáng chú ý, một số lĩnh vực mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam sang địa bàn cũng có nguy cơ bị áp thuế chống phá giá hoặc xem xét gia hạn áp thuế chống phá giá như: tấm pin năng lượng mặt trời (hiện Việt Nam chiếm gần 1/3 thị phần của Canada); thép chống ăn mòn, phụ kiện ống đồng, ghế bọc nệm… cũng là những cản trở không nhỏ đến tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Canada.
Bên cạnh đó, xu hướng nhập khẩu của thị trường Canada cũng thể hiện rõ định hướng “friendshoring” trong chiến lược đối ngoại của Canada, theo đó, Canada tiếp tục ưu tiên nhập khẩu từ các đối tác đồng minh (với mức tăng trưởng đột biến từ Đức, Italia, Anh, trung bình từ 10% trở lên) và giảm mạnh nhập khẩu từ Trung Quốc (giảm 10,1% so với cùng kỳ năm 2022).
Trong quý I/2023, qua theo dõi số liệu nước sở tại, Canada đặc biệt đẩy mạnh nhập khẩu từ Ecuador, Argentina, Chile và Mexico. Ngoại trừ Argentina, cả Ecuador, Chile và Mexico đều có Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới (FTAs) song phương với Canada. Ngoài ra, việc Canada đẩy mạnh thương mại ít phát thải và giảm dấu chân carbon tiêu dùng cũng là những xu hướng tác động lâu dài đến năng lực tăng trưởng xuất khẩu bền vững của Việt Nam
Theo Tham tán thương vụ Việt Nam tại Canada, đối với một số lĩnh vực sản phẩm cụ thể, việc sụt giảm xuất khẩu không chỉ trong năm 2023 mà có thể cả trong vài năm tới là xu hướng khó tránh khỏi.
Đơn cứ như thuỷ sản, lĩnh vực này có sự sụt giảm mạnh trong năm 2023 do kém cạnh tranh về giá so với các mặt hàng cùng loại của Trung Quốc, Ấn Độ, Chile, Ecuador. Thêm vào đó, việc Canada thúc đẩy ký kết một loạt các FTA song phương và khu vực sẽ càng làm cho Việt Nam khó cạnh tranh với các nước láng giềng Nam Mỹ.
Hay đối với sắt thép, hiện nay lĩnh vực xây dựng chịu tác động rất tiêu cực vì giá cho vay của ngân hàng quá cao và lạm phát nhất là trong lĩnh vực hàng thiết yếu cao, khiến cho nhu cầu mua sắm và sửa chữa nhà cửa sụt giảm mạnh; bên cạnh đó đầu tư hạ tầng công triển khai khá chậm do tình trạng thiếu nhân lực lao động trong ngành.
Đặc biệt, gạo, rau củ quả cũng là những lĩnh vực mặt hàng Việt Nam rất khó giữ vị trí cạnh tranh với các đối thủ như Hoa Kỳ, Nam Mỹ do lợi thế địa lý và chi phí vận chuyển. Hơn nữa, nhiều nước Nam Mỹ bắt đầu đầu tư mạnh vào việc phát triển các cây ăn quả nhiệt đới tương tự của Việt Nam: mít, xoài, vải, chôm chôm, na, thanh long, măng cụt và thúc đẩy xuất khẩu vào Canada trong những tháng gần đây.
Đối với lĩnh vực dệt may, đại diện Thương vụ Việt Nam tại Canada cũng thông tin về Chương trình Ưu đãi Phổ cập thuế quan tăng cường mới được nước này đưa ra. Đây là một chương trình ưu đãi thuế mới được Canada lập ra trong kế hoạch ngân sách năm nay nhằm đưa ra những ưu đãi cho các nước mà theo Canada đạt được các tiêu chuẩn về nhân quyền, bình đẳng giới, điều kiện lao động và biến đổi khí hậu. Trong khi Chương trình ưu đãi phổ cập thuế quan thông thường sẽ không áp đặt thêm các tiêu chí về xã hội và môi trường.
Đây là bất lợi lớn cho ngành dệt may Việt Nam khi các đối thủ dệt may cạnh tranh lớn như: Bangladesh, Campuchia, Haiti, Sri Lanka, Pakistan, Kenya, Ai Cập và El Salvador.
Cần tận dụng hơn nữa CPTPP
Theo báo Công Thương, nghiên cứu số liệu sở tại từ 2018 - 2022 cho thấy, từ sau khi CPTPP có hiệu lực, xuất khẩu của Việt Nam trong hầu hết các lĩnh vực mặt hàng nông sản và thực phẩm chế biến đều tăng (trừ sản phẩm trái cây và hạt).
Trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, nhiều sản phẩm của khu vực công nghiệp nội địa có mức tăng vượt bậc, chứng minh tác động tích cực của CPTPP đến xuất khẩu của Việt Nam sang địa bàn.
Tuy nhiên, tỉ lệ sử dụng ưu đãi thuế quan CPTPP của Việt Nam vẫn còn chưa khai thác hết tiềm năng mà Hiệp định này mang lại.
Theo số liệu nước sở tại, trong năm 2022, khoảng 81% hàng hoá xuất khẩu Việt Nam sang Canada vẫn sử dụng ưu đãi thuế quan MFN và khoảng dưới 1% vẫn sử dụng ưu đãi thuế quan GPT; chỉ có 18% sử dụng ưu đãi thuế quan CPTPP.
Lý do là hoặc các doanh nghiệp của Việt Nam chưa quan tâm đến việc sử dụng ưu đãi thuế quan CPTPP; hoặc do các sản phẩm của chúng ta chưa đủ điều kiện về xuất xứ/hàm lượng khu vực (thường là đối với sản phẩm dệt may vì CPTPP yêu cầu xuất xứ từ sợi trở đi).
Ngoài ra, trong nhiều lĩnh vực mặt hàng, các doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu vẫn chưa biết cách tận dụng và khai thác nguyên tắc xuất xứ cộng gộp trong sản xuất, trong chiến lược mua nguyên liệu đầu vào để đảm bảo hàm lượng CPTPP trong xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan. "Đây có thể nói là hạn chế đáng tiếc nhất, cản trở tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này", Thương vụ Việt Nam tại Canada nhận định.
Liên quan đến vấn đề này, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập của VCCI cho rằng, thời gian tới doanh nghiệp phải sẵn sàng trước những thách thức mới. Thời gian vừa rồi, chúng ta tương đối nhiều lợi thế khi “một mình một chợ”. Bởi vì, các nước đối thủ cạnh tranh có những sản phẩm hàng hóa tương tự như chúng ta ở khu vực ASEAN, châu Á thì họ chưa có hiệp định với các nước như là Canada hay Mexico. Vì thế, những sản phẩm hàng hóa mà chúng ta có lợi thế gần như chúng ta có ưu thế tuyệt đối với ưu đãi thuế quan CPTPP.
Những biến động về địa chính trị, yếu tố khác sẽ ảnh hưởng đến lợi thế của chúng ta trong việc tận dụng CPTPP ở thị trường này, nói một cách ngắn gọn, lợi thế vẫn đang là một trong những ưu điểm của chúng ta ở thị trường này, nhưng nó không kéo quá dài, vì thế các doanh nghiệp phải tận dụng mọi cơ hội ở thời điểm hiện tại. Đồng thời chuẩn bị nâng cao năng lực cạnh tranh trong giai đoạn tới, khi các lợi thế không còn nhiều.
Minh Hoa (t/h)