Sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm tăng 7,5%, top các địa phương tăng mạnh không có các thành phố trực thuộc TW
Theo báo cáo mới nhất của Tổng cục Thống kê, tính chung 4 tháng đầu năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó Hà Giang và Bắc Giang có mức tăng trưởng tốt nhất với con số lần lượt là 33,2% và 32,1%.
Theo báo cáo mới nhất của Tổng cục Thống kê, sản xuất công nghiệp tháng 4 ước tính tăng 2% so với tháng trước và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước.
Lý do là dịch Covid-19 đã được kiểm soát, các doanh nghiệp chủ động hơn về lao động và kế hoạch sản xuất kinh doanh, khắc phục khó khăn để phục hồi, mở rộng sản xuất.
Trong đó, so với cùng kỳ năm 2021, ngành chế biến, chế tạo tăng 11,3% (cao hơn tốc độ tăng 5,8% và 9,6% của cùng kỳ năm 2018 và 2019, những năm chưa có dịch Covid-19); sản xuất và phân phối điện tăng 2,8%; ngành khai khoáng tăng 2,3%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,4%.
Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 8,3% (cùng kỳ năm 2021 tăng 12,1%), đóng góp 6,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,6%, đóng góp 0,6 điểm phần trăm.
Ngoài ra, ngành khai khoáng cũng tăng 2,6%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,1%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Chỉ số sản xuất 4 tháng đầu năm 2022 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước và có mức tăng cao hơn cùng kỳ năm 2019 (năm chưa có dịch Covid-19).
Cụ thể, ngành sản xuất trang phục tăng 20,1% (cùng kỳ năm 2019 tăng 7,9%); sản xuất thiết bị điện tăng 19,1% (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,2%); sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 13,2% (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,9%).
Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 12,8% (cùng kỳ năm 2019 tăng 3,9%), sản xuất da và các sản phẩm liên quan tăng 12,8% (cùng kỳ năm 2019 tăng 8,3%); sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 11,1% (cùng kỳ năm 2019 giảm 3,4%).
Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành giảm như ngành sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 12,9%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 11,5%.
Bên cạnh đó, ngành sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 8,3%; khai khoáng khác giảm 4%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 3,3%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 1,7%.
Về phía địa phương, theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 61 địa phương và giảm ở 2 địa phương trên cả nước.
8 địa phương còn lại trong top 10 địa phương có tốc độ tăng IIP cao nhất là Kon Tum, Lai Châu, Bình Phước, Hải Dương, Quảng Nam, Đắc Lắk, Bạc Liêu và Lâm Đồng.
Tốc độ tăng/giảm IIP 4 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương (%) (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Ở chiều ngược lại, tỉnh Trà Vinh và Hà Tĩnh là 2 tỉnh ghi nhận chỉ số IIP giảm lần lượt 7,9% và 19,7% so với cùng kỳ năm trước.
Báo cáo của Tổng cục Thống kê cũng chỉ ra một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong 4 tháng đầu năm 2022 tăng cao so với cùng kỳ năm trước như bột ngọt và linh kiện điện thoại cùng tăng 21,5%; thép thanh, thép góc tăng 15,2%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 13,5%; phân u rê tăng 13,2%.
Xếp sau đó là Alumin tăng 12,7%; quần áo mặc thường tăng 12,3%; ô tô tăng 12%; thủy hải sản chế biến tăng 11,3%; sữa tươi tăng 9,7%; thép cán tăng 9,6%; than sạch tăng 9,3%.
Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước là Tivi giảm 18,9%; điện thoại di động giảm 9,9%; xăng, dầu giảm 9,7%; vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 9,1%; thức ăn cho thủy sản giảm 8,4%; sắt, thép thô giảm 5,8%; sơn hóa học giảm 2,6%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 2,1%; dầu mỏ thô khai thác giảm 1,1%.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/4 tăng 1,3% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 3,9% so với cùng thời điểm năm trước.
Trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,2% và giảm 3,9%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,1% và giảm 2,4%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,5% và tăng 5,3%.
Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,3% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 1,8% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,4% và tăng 4,3%.
Còn lao động trong ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí không đổi và tăng 0,7%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải không đổi và tăng 1,8%.
Hoàng Tùng
Nhịp sống kinh tế