“Rước voi về giày mả tổ, cõng rắn cắn gà nhà” – P3
Có Nguyễn Ánh hay không có Nguyễn Ánh, Việt Nam cũng bị chiếm làm thuộc địa, vì phong trào và lý do đi chiếm thuộc địa của các nước Tây Âu vào những năm 1840, như đã trình ở trên.
Chia sẻ FB Chia sẻ Twitter Bình luận
Theo tôi, không chỉ có vua Minh-Trị muốn canh tân đất nước mình, mà còn có những Nguyên Thủ Quốc Gia khác ở Á Đông, cũng có những ý kiến tương tự. Nhưng khi nước mình đã bị làm thuộc địa của các nước Tây Phương, thì không triển khai các hoài bão của mình được. Nhật rất may mắn được Mỹ can thiệp, nếu không thì đã bị các nước Tây Âu chiếm làm thuộc địa rồi.
Tiếp theo phần 2
3) Trường hợp của Thái-Lan
Thái-Lan nằm giữa Ấn-Độ, Miến Điện thuộc Anh và Đông Dương thuộc Pháp, nên được xem như một “vùng Đệm” (zone tampon/buffer?). Nếu Anh chiếm Thái-Lan thì Pháp sẽ có phản ứng, nếu Pháp chiếm Thái-Lan, thì Anh cũng sẽ có phản ứng. Vào thời buổi đó Anh và Pháp được xem như là hai nước thù địch. Tuy Thái-Lan là một nước “độc lập” trên giấy tờ, nhưng phải nhượng bộ Anh và Pháp trên nhiều phương diện, như không công nhận luật pháp Thái cho công dân Anh, Pháp; được đặc quyền ngoại giao, được ưu đãi về thuế má…, cùng gặm nhấm đất đai của Thái-Lan, như Anh thì chiếm Mã-Lai của Thái, Pháp thì chiếm một phần đất ở Lào và Campuchia thuộc Thái… [Xem Dominique Guillemin: “Quelle place pour le Siam dans l’Asie coloniale?” , trên Mạng Internet].
4) Vai trò cốt lõi của các Thừa Sai đạo Ki-Tô (7)
Tôi viết những hàng sau đây, có thể làm phật lòng một số độc giả. Xin độc giả thông cảm cho, vì đây là Lịch Sử, có dẫn chứng đàng hoàng. Tôi rất kính phục đạo Ki-Tô, vì họ làm nhiều điều lợi ích cho xã hội, như các bệnh viện xưa, ở Pháp, được gọi là “Hostel-Dieu” , hội Hồng Thập Tự do Henry Dunant, một tín đồ đạo Tin-Lành lập nên, những trại cùi do các “bà phước” chăm sóc… và với phương châm “Thương người như chính mình vậy” …
Những thừa sai đạo Ki-Tô là những người tu hành, muốn đi khắp thế giới để rao giảng “Phúc Âm” cho người dân “lạc hậu” của những nước chậm tiến. Họ cũng là những con người, nên xem trọng, thương kính quốc gia của chính mình hơn các quốc gia nhược tiểu mà họ đến để truyền giáo.
Họ đi theo các nhà thám hiểm và giúp các nhà thám hiểm chiếm thuộc địa. [Xem “Missions catholiques aux XVIe et XVIIe siècles” Wikipedia. “Sứ mệnh của đạo Ki-Tô La Mã trong những thế kỷ 16, 17” ].
(Nguyên văn: “les Espagnols ne conçoivent pas la mise en place d’une administration espagnole sans y inclure les institutions cléricales”. “Người Y-Pha-Nho không thể đặt chính quyền, nếu không có thể chế tăng lữ của họ” ).
Hay các thừa sai đến truyền giáo ở các nước chậm tiến để xúi chính quyền của mình chiếm lấy thuộc địa. [Xem Eric Roulet: “Evangéliser en contexte colonial” , trên mạng Internet. “Truyền giáo trong bối cảnh thuộc địa” ]
(Nguyên văn: “L’évangélisation fait partie du projet colonial. Ce sont deux termes indissolublement liés. Il n’y a pas de conquête ou d’empire sans évangélisation en Amérique, en Afrique ou en Asie. Il apparaît que ces deux termes semblent très proches, au moins dans l’intention: évangéliser pour coloniser ou coloniser parce qu’on évangélise – pour reprendre les termes des bulles papales ou dans les cédules de la monarchie espagnole.”
“Truyền giáo là một phần của dự án chiếm thuộc địa. Đây là hai điều kiện không thể tách rời nhau. Không có cuộc chinh phục hay đế chế nào mà không có sự truyền giáo ở Mỹ Châu, Phi Châu hay Á Châu. Hình như hai thuật ngữ này rất sát với nhau, ít nhất là trong mục tiêu: truyền giáo để chiếm thuộc địa, hay chiếm thuộc địa để truyền giáo – đây là các sắc lệnh của Giáo Hoàng, hay trong lịch trình của chế độ quân chủ Tây Ban Nha.” )
(7) Sở dĩ tôi gọi Ki-Tô vì Ki-Tô có nhiều đạo: Đạo Tin-Lành, đạo Luther, Anh giáo, đạo Cơ Đốc Chính Thông, đạo Ki-Tô La-Mã (còn gọi là đạo Thiên Chúa hay Công Giáo. Công Giáo là do người Tàu dịch chữ catholicus, có nghĩa là phổ quát), để phân biệt với các đạo Ki-Tô khác, và còn nhiều đạo Ki-Tô khác nữa…
5) Linh mục Pháp đến Việt Nam
Người ta thường cho rằng linh mục Alexandre De Rhodes (1591-1660) là thừa sai Pháp đầu tiên đến Việt Nam. Chuyện không phải thế. Trước cụ De Rhodes đã có các thương gia, các linh mục người Pháp khác đã đến Việt Nam, như linh mục François Xavier (1506-1552) (có ghé qua Việt Nam, chứ không ở Việt Nam)… Sở dĩ cụ De Rhodes được biết nhiều vì đã làm cuốn Từ Điển “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” (Từ Điển Việt, Bồ, Latinh) và “đặt ra” chữ Quốc Ngữ. Thật sự không phải cụ De Rhodes đặt ra chữ Quốc Ngữ mà là linh mục Francesco de Pina (1585-1625), một giáo sĩ Dòng Tên, người Bồ Đào Nha [đến Đàng-Ngoài năm trong năm 1617, từ trần vì đắm thuyền ở vịnh Đà Nẵng 1625]. Linh mục De Pina là Thầy của cụ De Rhodes và cụ cũng học thêm với các linh mục Bồ khác. Có chăng thì cụ De Rhodes có thêm bớt ít nhiều trong những khi tiếp xúc với người Việt, thời bấy giờ. [Xem Trần Gia Phụng “Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ” , trên mạng].
Tôi là người Việt đang viết chữ “Quốc Ngữ” , và tôi cũng cám ơn cụ de Rhodes đã có công, cùng với các vị giáo sĩ khác, đã đặt nền tảng cho chữ Việt ngày nay, nhưng tôi không tôn thờ các cụ, vì các cụ đặt chữ Quốc Ngữ là do lợi ích riêng của các cụ. Các cụ dùng chữ Quốc Ngữ để dễ dàng cho việc đi truyền đạo của các cụ, các cụ ước vọng biến Việt Nam thành một nước Ki-Tô giáo La-Mã, như các nước Âu-Châu lúc bấy giờ. Các cụ không có một chút mảy may gì để ý đến sự phát triển, hay không phát triển văn hóa, văn chương của nước ta. Mặc dầu chữ “Quốc Ngữ” đơn giản hơn chữ Hán và chữ Nôm nhiều, nhưng cũng vì thế mà từ năm 1919 (dưới triều Thành-Thái) cho đến ngày nay, một số đông các sử gia không biết chữ Hán, chữ Nôm, là những tài liệu đầu tay, mà dựa vào sách sử của Pháp mà viết sử Việt-Nam, thành một số sách sử Việt đều viết sai sử Việt hết. Cũng may là các sách sử Việt viết bằng chữ Hán, chữ Nôm được dịch ra Quốc Ngữ, nhưng cũng mới đây thôi. Văn hóa, văn chương nước ta được phát triển là nhờ những người Việt, đã dày công cải tiến chữ Quốc Ngữ, như Nguyễn Văn Vĩnh, Trương Vĩnh Ký (theo đạo Ki-Tô La-Mã, viết cuốn sử “Cours d’Histoire” thì vu khống, nói xấu một cách thậm tệ các vua Minh-Mạng, Thiệu-Trị, Tự-Đức, theo lời của các thừa sai thực dân, còn xúi Pháp “trừng trị” các vị vua trên vì “phản” lại Pháp) [Xem NQTrị, sđd, từ trang 514 đến 518, có dẫn chứng đàng hoàng các sách của các thừa sai và Thực Lục. Thụy Khuê: “Quê Hương Ngày Trở Lại” . Huế, mạng Internet]…, Nguyễn Trường Tộ (theo đạo Ki-Tô La-Mã là một tay sai trung thành của Pháp) [Xem Thụy Khuê: “Quê Hương Ngày Trở Lại” . Huế, mạng Internet] và sau nầy là các nhóm Nam Phong Tạp Chí, Tự Lực Văn Đoàn, v.v..
Ngày nay, chúng ta phải học tiếng Anh, nếu muốn tiếp xúc hay giao thương với các nước ngoài. Ở Monaco và ở vài trường học ở Pháp, Anh văn được dạy từ cấp Tiểu học. Tôi có quen một số bạn ở Thái Lan và ở Singapore (lúc tôi còn là sinh viên du học ở Pháp), một vài người trong số các bạn trên không biết tiếng Thái hay tiếng Tàu, mà chỉ biết tiếng Anh mà thôi. Vậy chúng ta cũng phải tôn thờ Anh Quốc sao?
Năm 2022, Trung Quốc đã trở thành một cường quốc số một hay số hai của thế giới, về phương diện Quân Sự cũng như Kinh tế, là nhờ lúc trước Trung Quốc đã học lóm (lỏm) hay buộc các nước Âu, Mỹ phải chuyển giao khoa học, kỹ thuật tân tiến của họ, nếu họ muốn làm ăn với Trung Quốc. Nhưng cả thế giới chưa ai thấy Trung Quốc tôn thờ các nước Âu, Mỹ trên, mà trái lại còn hống hách với họ nữa là khác!
Người Việt mình có tánh hay nhớ ơn. Chúng ta biết ơn cụ de Rhodes cũng là chuyện thường tình trong phong tục của chúng ta, nhưng ở trên mạng Internet, ta thấy có vài bài viết của người Việt có ý tôn thờ cụ de Rhodes, thì theo tôi, đó là quá đáng.
Hơn nữa, trong thơ của cụ de Rhodes, ở đầu cuốn sách “Histoire du royaume de Tunquin et des grands progrès que la prédication de l’Evangile y a faits en la conversion des infidèles” ( “Lịch sử vương quốc Bắc Hà và sự tiến bộ lớn lao mà việc rao giảng Phúc Âm đã đạt được ở đó, trong việc cải đạo những kẻ theo dị giáo” do linh mục Henry Albi dịch từ tiếng Latinh sang tiếng Pháp. NXB Jean Baptiste Devenet, năm 1651), ta thấy cụ de Rhodes đã tôn kính tâng bốc Louis XIV (Nguyên văn: “…qu’il faſſe de l’Orient de voſtre Regne, vn Midy”, “…Tôi cầu nguyện Thiên Chúa, để buổi hừng đông của Triều Đại của Bệ Hạ, được sáng chói như Mặt Trời lúc đúng Ngọ…” ), đề tặng nhà vua cuốn “Lịch sử xứ Bắc Hà” với sự trù phú muôn màu, muôn vẻ của đất Bắc-Hà, và khoe khoang công lao của cụ cùng các thừa sai đã cải đạo cho trên 200.000 người (plus de deux cents mille Chreſtiẽs) (có thổi phồng lên không?), trong một quốc gia mà 5.000 năm nay, vì dị đoan, chỉ biết tôn thờ Ma Quỷ (Nguyên văn: “…vne Nation qui depuis cinq mille ans n’auoit reconnu que le Demons pour Maiſtres…” ).
Phải chăng cụ de Rhodes đã khéo léo xúi dục Louis XIV để ý đến Bắc Hà, để chiếm lấy? Năm 1663, cụ de Rhodes lập Hội Thừa Sai Paris (Missions étrangères de Paris), thì ngay sau đó Jean-Baptiste Colbert (1619-1683), bộ trưởng Hàng Hải, Hải Quân và là cánh tay mặt của Louis XIV đã lập ra, năm 1664, Công Ty Đông Ấn của Pháp (Compagnie française des Indes orientales). Thương điếm Pondichéry được lập năm 1670. Sau nầy còn có François Pallu (1626-1684), giám mục tổng tòa ở Bắc-Hà và Pierre Lambert de la Motte (1624-1679), giám mục tổng tòa ở Nam-Hà. Cũng nên xem bài “Alexandre de Rhodes, tên gián điệp Pháp” của Trần Chung Ngọc, lấy những đoạn viết trong cuốn “Hành Trình và Truyền Giáo” (Voyages et Missions dv P. Alexandre de Rhodes) của cụ de Rhodes, trên Mạng Internet, bài viết “Tuyển Tập Độc Thần Giáo” của Nguyễn Charlie, cũng ở trên mạng Internet. Bà Thụy-Khuê thì nói cụ de Rhodes, đem đầu của Anrê Lý đến Vatican và xin Vatican bảo vệ các thừa sai, cùng để cho các thừa sai Paris độc quyền rao giảng đạo giáo ở Đại Việt, xin chính quyền Pháp che chở các thừa sai người Pháp, ở Đại Việt, nghĩa là đem quân chiếm lấy Đại Việt? [Xem Thụy-Khuê “Quê Hương ngày trở lại”, Huế, Phú-Yên, 2019. Viết tắt QHH. Trên mạng Internet].
Đó ta thấy các cụ de Rhodes (1591-1660), Pallu (1626-1684), de la Motte (1624-1679) đến Bắc, Nam Hà, và xúi giục chính quyền Pháp chiếm lấy Việt Nam, lúc mà Nguyễn Ánh chưa sinh ra (sinh năm 1762), thì làm sao Nguyễn Ánh “Cõng Rắn Cắn Gà Nhà” cho được!
Công bằng và thành thật, phải nói là nhờ sự khéo léo của Nguyễn Ánh, mà đến mãi năm 1867 (Pháp chiếm 6 tỉnh ở Nam Kỳ), nghĩa là khoảng 70 năm sau, đến triều Tự-Đức (vua Tư-Đức kêu Nguyễn Ánh bằng Ông Cố/Arrière-Grand-Père/Great Grandfather), Pháp mới chiếm được Việt-Nam, vì lý do đi tìm thuộc địa của các nước Tây Âu như đã trình ở trên. Cũng nên nhớ là Pháp chiếm Pondichéry năm 1674, Mahé năm 1721, Yanaon năm 1731, Karikal năm 1739; và Y-Pha-Nho chiếm Phi-Luật-Tân năm 1565! [Xem Wikipedia về Pondichéry]. Đó cũng do Nguyễn Ánh gây ra à, khi mà Nguyễn Ánh chưa sinh ra (Nguyễn Ánh sinh năm 1762). Vậy nói Nguyễn Ánh “Cõng Rắn Cắn Gà Nhà” có “Hàm Hồ” quá chăng?
Còn Pigneau thì khỏi nói. Với những báo cáo của cụ trình lên nội các của Louis XVI, trước khi ký Hiệp Ước Versailles, thì cụ đã thúc giục Louis XVI chiếm ngay Nam-Hà [Xem Taboulet “La Geste Française [ăn nói hỗn xược] en Indochine” , sđd, trang 180 đến 184]. Nhưng như đã trình trên, đến khoảng những năm 1840, các nước Tây Âu mới đua nhau đi chiếm thuộc địa, vả lại lúc bấy giờ Pháp [dưới thời Nguyễn Ánh] đang còn yếu (xem chuyện chiếc tàu Armide, trong mục nói về Barisy, ở trên), nên, nếu Pháp muốn đánh chiếm Nam-Hà, thì không chắc gì Pháp đã đánh thắng được Nguyễn Ánh.
Như đã trình trên: Truyền đạo để chiếm thuộc địa, như trường hợp Macao (Bồ), Việt Nam (Pháp)…, hay chiếm thuộc địa để truyền đạo, như Phi-Luật-Tân (Y Pha Nho), Miến Điện (Anh Quốc)… [Xem Eric Roulet: “Evangéliser en contexte colonial” , trên mạng Internet. “Truyền giáo trong bối cảnh thuộc địa” ]
II – Cản và Cấm đạo Ki-Tô ở Á Châu
1) Nguyên nhân Cản đạo Ki-Tô
a) Nguyên nhân thứ nhất
Trên mạng Internet có bài viết của Isabelle de Gaulmyn: “Pourquoi l’Asie est-elle restée en dehors de l’influence chrétienne?” ( “Tại sao Á Châu lại nằm ngoài ảnh hưởng đạo Ki-Tô?” ). Trong bài viết đó, tác giả nói đạo Phật không chấp nhận Tạo-Hóa, trong khi Ki-Tô giáo lại chấp nhận Tạo-Hóa (Dieu/God). Nói thế, theo tôi thì quá phiến diện.
Tiền nhân của chúng ta, không may mắn như chúng ta ngày nay. Ngày nay, chúng ta được xem các hình chụp về những đám “mây” do các thiên hà tạo nên, nhờ kính thiên văn của vệ tinh nhân tạo Hubble. Nhìn những đám “mây” đó, chúng ta phải sững sờ trước sự bao la, huyền diệu của vũ trụ, và nếu có đức tin, trước sự thần bí của Tạo-Hóa. Có một số các nhà Vật Lý Thiên Văn tin có Tạo-Hóa. Dãy Ngân Hà chỉ là một thiên hà nhỏ bé trong hàng tỷ thiên hà khác trong vũ trụ, Thái Dương hệ chỉ là một hạt cát, đừng nói chi Trái Đất chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ bao la không tưởng, còn con người thì không biết lấy gì để so sánh với vũ trụ. Tuy tiền nhân của chúng ta, tuy không biết về các hình ảnh do Hubble cho, nhưng các vị cũng biết sự thần bí của Tạo-Hóa mà người Việt chúng ta gọi là “Ông Trời”.
Ở Á Châu nói chung và ở Việt Nam nói riêng, chúng ta có các đạo, như đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng, hay có người tin dị đoan, đi thờ Cây, Cỏ, Đá, Động, Núi, Sông, Cọp, Rắn…, nhưng tiền nhân của chúng ta không cho Đức Phật, Lão Tử, Khổng Tử, Cây, Cỏ, Đá, Động, Núi, Sông, Cọp, Rắn… là Ông Trời, là Tạo-Hóa cả! Chỉ có đạo Ki-Tô cho một con người, Đức Giê Su (Gésus/Gesus) là Tạo-Hóa! Một người nữ (Đức Bà Maria) là Mẹ của Tạo-Hóa! Nếu không có “Đức tin” , thì chuyện đó làm cho chúng ta quá bỡ ngỡ, khó tin, ngay trong thế kỷ thứ 21 nầy, huống hồ tiền nhân của chúng ta ngày xưa!
Trên phương diện chính trị, Á Đông của chúng ta, lúc trước, chịu ảnh hưởng Nho Giáo rất nặng. Vua được xem như Con của Trời (Thiên Tử, nhưng vua không phải là Trời, là Tạo-Hóa), mà thay Trời (Tạo-Hóa) hành đạo. Vua có bổn phận phải làm cho Nước hùng cường, hưng thịnh, vua có bổn phận phải làm cho Dân thịnh đạt, phồn vinh. Ngoài ra vua còn có bổn phận, thay Trời (Tạo-Hóa) dạy dỗ thần dân về đạo đức “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” [Xem “Ý nghĩa các chữ Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” trên mạng Internet.], như cha mẹ dạy con cái cho nên người. “Dân chi Phụ Mẫu” (Cha Mẹ của Dân) là vậy.
Cho nên các vua chúa nước ta và cả vua chúa của phần đông của Á Châu, như Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cao Miên, Trung Quốc, Cao Ly, Nhật Bản…, khi nghe các giáo sĩ Ki-Tô giáo rao giảng một con người là Tạo-Hóa, các vị không khỏi bỡ ngỡ, ngỡ ngàng, và vì các vị không có “Đức tin” , và vì bổn phận “Dân chi Phụ Mẫu” đều ngăn cản đạo Ki-Tô, cho đạo Ki-Tô là “Tà giáo”, nhưng chưa cấm đạo và bách hại giáo dân Ki-Tô giáo.
Cũng nên nói là chính một phần giáo dân Ki-Tô giáo nguyên thủy cũng không có “Đức tin” đó. Phải đợi đến năm 325, hoàng đế Constantinus đệ nhất, vì để thống nhất đế chế, nghĩa là về chuyện chính trị hơn về chuyện tôn giáo, đã cho triệu tập “Cộng Đồng” Nicaeae (Nicée/Nicaea), để giải quyết thần khẩn (giáo điều/dogme/dogma) về Tạo-Hóa: Tạo-Hóa (Thiên Chúa/Dieu/God) có ba Ngôi: Ngôi Thứ Nhất, Ngôi Cha là sự Vĩnh Cửu, Bất Diệt của Tạo-Hóa (L’Eternel/The Eternal); Ngôi thứ Hai, Ngôi Con là Lời của Tạo-Hóa (Le Verbe/The Verb of God) là Đức Giê-Su; Ngôi thứ Ba, Ngôi Thánh Thần, là Khí Thế của Tạo-Hóa (Souffle/Breath of God). Ba Ngôi trên đều là một Tạo-Hóa duy nhất cả. Cộng Đồng Nicaeae có khoảng 300 linh mục và giám mục (con số, tùy theo mỗi tác giả), bàn luận trên 2 tháng (20/05/325 đến 25/07/325) để xác định Đức Giê-Su là Ngôi Hai của Tạo-Hóa và là Tạo-Hóa. Trong cuộc bỏ phiếu cho ý kiến, thì có 3 vị không chấp nhận Đức Giê-Su là Tạo-Hóa là linh mục Arius, giám mục Second de Ptolémaïs và Thomas de Marmarique. Ba vị nầy bị dứt “Phép Thông Công” và bị đày đi ở Illyrici, một khu vực ở phía đông nước Ý, bên kia biển Adriatique bây giờ [Xem “Premier Concile de Nicée” , Wikipedia, trên Mạng Internet]. Kinh “Tin Kính” có từ đây.
Vì một con người ở trên Trái Đất (Đức Giê-Su) là Tạo-Hóa, nên Ki-Tô giáo La-Mã đã cho Trái Đất là trung tâm của Vũ Trụ. Mặt Trời, các ngôi sao đều quay quanh Trái Đất. Nếu có những nhà bác học cho những ý kiến khác thì bị giáo hội Ki-Tô La-Mã trù dập, như các bác học Nicolaus Copernicus (1473-1543) và Galileo Galilei (1564-1642), đã cho rằng Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời. Giáo hội Ki-Tô La-Mã đã xin lỗi về vụ án Galilei chỉ vào năm 1992! Theo “Đức Tin” , thì giáo hoàng không bao giờ sai lạc, vì có “Tạo-Hóa Thánh-Thần” chỉ vẽ cho, thế mà phải đợi đến 359 năm mới tha tội cho Galilei (1633-1992). Sự kiện Trái Đất quay quanh Mặt Trời đã được các nhà thiên văn Trung Quốc, Hy Lạp, Ai Cập… biết, cả mấy thế kỷ trước Công Nguyên
Phụ Trang :
Cách đây khoảng 20 năm, tôi có đọc vài cuốn sách của Gerald Messadié, và của M. Baigent, R. Leigh, H. Lincoln. Ở đây tôi xin nói đến 4 cuốn, tuy viết theo dạng “Tiểu Thuyết”, nhưng có rất nhiều dẫn chứng. Đó là những cuốn “L’homme qui devint Dieu” (Một con người đã trở thành Tạo-Hóa), NXB Robert Laffont, Paris, 1988, có khoảng 800 trang, và dựa trên 1.000 tài liệu (không cho tên những tài liệu đó, vì nếu viết ra, thì theo tác giả, cũng phải cần trên 1.000 trang giấy) và “Jésus de Srinagar” ( “Giê-Su của thành phố Srinagar ở Ấn-Độ” , cùng một nhà xuất bản, năm 1995, có khoảng 500 trang, và có khoảng 75 tài liệu dẫn chứng, mà phần đông là những sách hay bài viết của các giáo sư đại học Anh, Mỹ (họ không theo một đạo nào hay họ là những người theo đạo Anh giáo?). Hai cuốn sách nầy kể rất tỷ mỷ về cuộc đời của Đức Giê-Su, dựa trên các “Phúc Âm khải quát” (Evangiles synoptiques/Synoptic Gospels), khá giống nhau (khoảng 85%), và theo Vatican là do Mathiêu, Marco và Luca viết và một “Phúc Âm” do Gioang viết. Bốn “Phúc Âm” nầy được gọi là “chính thống” (canonique/canonical) do cộng đồng Nicaeae lựa chọn, cùng với những “Phúc Âm Mật” (Evanglies apocryphes/apocryphal gospels) mà giáo hội Ki-Tô La-Mã cho là “Ngụy Tạo” (Có khoảng mấy chục “Phúc Âm Mật” , như “Phúc Âm” theo Maria, “Phúc Âm” theo Jacques, “Phúc Âm” theo Phérô, “Phúc Âm” theo Thomas, v.v., và những bài viết trên những tấm da cừu ở Qumrân). Hai cuốn sách sau là “L’Enigme Sacrée” (Bí Ẩn thiêng liêng. Nguyên văn tiếng Anh: “The Holy Blood and the Holy Grail”, “Máu Thánh và Thánh Vật” [có thể là một cái hũ đựng máu Đức Giê-Su, hay một linh vật khác có dính líu đến Đức Giê-Su]), của M. Baigent, R. Leigh, H. Lincoln, do Brigitte Chabrol dịch từ tiếng Anh sang tiếng Pháp, NXB Pygmalion, 1983, khoảng 500 trang, với gần 280 tài liệu dẫn chứng, và “Le Message” (Sứ Mệnh. Nguyên văn tiếng Anh: “The Messianic legacy”, “Di Sản Thiên Sai” ), của cùng ba tác giả trên, do Hubert Tezenas dịch từ tiếng Anh sang tiếng Pháp, cùng NXB, 1987, cũng khoảng 500 trang, với gần 200 tài liệu dẫn chứng.
Theo 4 tác giả trên và một số tác giả mà họ đã dẫn chứng, thì Đức Giê-Su thuộc một phái đạo giáo Do-Thái, chống sự xâm lược La-Mã, nên bị Pontius Pilatus (Ponce Pilate, 12 trước Công Nguyên – 38 sau Công Nguyên), Thống Đốc La-Mã tại Iudaea (Judée/Judaea), bắt và đóng đinh lên Thập Tự Giá. Theo luật La-Mã thời đó, tội tử hình gồm có: Ném Đá hay Đánh Bằng Roi cho đến chết, Thắt Cổ, Chém và Đóng Đinh trên Thâp Tự Giá. Có quy ước giữa Pilatus và Sanhédrin (tòa án đạo giáo và dân sự của đạo Do-Thái) là nếu có người Do-Thái phạm pháp về luật đạo Do-Thái, thì Sanhédrin có quyền xử tử hình bằng cách “Ném Đá hay Đánh Roi” , còn tội “Đóng Đinh trên Thập Tự Giá” là dành cho những người chống lại La-Mã. Đức Giê-Su bị lính La-Mã bắt và bị Pilatus đóng đinh trên Thập Tự giá. Theo các “Phúc Âm” chính thống, thì các quan tòa Sanhédrin xúi giục dân Do-Thái làm áp lực lên Pilatus, để giết Đức Giê-Su. Theo 4 tác giả trên và một số tác giả mà họ đã dẫn chứng, đó là do các “Phúc Âm” chính thống đã sao đi, chép lại, bỏ trước, thêm sau, sửa đổi nhiều lần cho đúng “Đức Tin” của Vatican đề ra, vì nếu Đức Giê-Su phạm lỗi về đạo giáo, thì Sanhédrin có thể giết Ngài bằng cách “Ném Đá, Đánh Roi” , chứ cần gì phải xin xỏ, hay làm áp lực với Pilatus để xin giết Đức Giê-Su! Vả lại tên Pilatus là một tên đại gian, đại ác, giết người không gớm tay, độc tài, tham nhũng, ăn hối lộ còn hơn tiền nhiệm Velerius Gratus của ông ta đến mấy lần, Gratus cũng đã có tiếng là đại gian ác rồi. Một tên đại gian, đại ác, độc tài, tham nhũng, ăn hối lộ như Pilatus mà lại nhượng bộ đám dân Do-Thái đi biểu tình ở thành Jérusalem à? hay cho binh lính ra hành hung để giải tán đám dân. Chưa nói đến chuyện dân Do-Thái thành Jérusalem, hôm qua, thì rước Đức Giê-Su như một vị vua, thì hôm nay, lại đứng trước mặt Philatus để xin giết Đức Giê-Su! Thật là một chuyện hoang đường, bịa đặt!
Một chuyện khác, cũng theo các tác giả trên, là Đức Giê-Su không phải đã chết đi, rồi ba ngày sau sống lại do thần thông của Tạo-Hóa Ngôi Hai Giê-Su. Các tác giả giải thích như sau: Một người bị “Đóng Đinh” sẽ chết ngạt một hay hai ngày sau đó, nhất là chân được đóng vào một miếng gỗ, để đỡ thân người khỏi tụt xuống làm ép phổi và sẽ ngạt thở rồi chết. Có người, cả một tuần sau mới chết! Đập bể hai ống chân không phải là một hành động độc ác, mà là một hành vi nhân đạo, để cho thân mình của tội nhân tụt xuống, phổi bị ép, hết không khí trong phổi, nên chỉ vài phút sau là chết, khỏi bị tiếp tục đau đớn vô tả. Ngoài ra, thân nhân của những tội nhân bị “Đóng Đinh” không có quyền an táng nạn nhân. Nạn nhân phải để treo trên Thập Giá, để cho chim muông hay cầm thú đến xé xác, xé xương.
Trên đầu Thập Giá có treo một cái biển, kể tội của phạm nhân. Thập giá của Đức Giê-Su có 4 chữ “INRI” (Iesus Nazarenus Rex Iudaeorum). Theo Vatican là “Giê-Su Nazareth Vua xứ Judée” , còn theo các tác giả trên, thì người ta chép lầm tiếng araméen (tiếng nói thông dụng ở Judée thời Đức Giê-Su) chữ “Nàzàri” , có nghĩa là sự tuân thủ luật lệ của giáo phái, còn có nghĩa là thành viên của giáo phái Nazaréen (tiếng Latinh là Nazarenus), với chữ “Nazéri” có nghĩa là người gốc ở thành phố Nazareth (hay Nazaréthain, tiếng Latinh là Nazarethanus) [Xem “Etude sur Nazareth et Nazaréen” trên Mạng Internet], vậy theo các tác giả trên 4 chữ “INRI” có nghĩa là “Giê-Su Nazarenus (chống La-Mã) Vua xứ Judée” .
Còn việc hành hình Đức Giê-Su thì sao? Theo các tác giả trên, Đức Giê-Su có một người bạn đại gia, rất giàu có, là Joseph d’Arimathie (có người cho d’Arimathie là một nhân viên mật trong nhóm kháng chiến của Đức Giê-Su, hay là bà con với Ngài). D’Arimathie có liên lạc rất “mật thiết” với Pilatus (nịnh bợ Pilatus và cho ông ta ăn hối lộ thường xuyên). D’Arimathie đã hối lộ cho Pilatus, còn mua chuộc đám lính La-Mã lo việc hành hình. Sau khi lấy roi đánh Đức Giê-Su, rồi đóng đinh Ngài, ba giờ sau (tôi nói lại là ba giờ sau), Đức Giê-Su nói là tôi khát, thì một tên lính lấy một cây thương đâm vào một miếng giẻ nhúng giấm (giấm là một loại thuốc an thần, nếu uống vào thì bớt đau và tỉnh lại. Giấm còn cho quân nhân La-Mã uống, khi bị thương ở trận mạc, để giảm đau), đưa lên cho Đức Giê-Su uống. Khi Đức Giê-Su đưa miệng vào nút một tý “giấm” , thì nói to vài tiếng và “chết” liền. D’Arimathie thấy vậy thì la oai oái là “Thầy đã chết” và nói với một tên lính lấy cây thương đâm vào sườn mặt (vì sườn trái gần tim) của Đức Giê-Su vào độ 2 phân, mà Đức Giê-Su không có một phản ứng nào, khi rút cây thương ra, thì có một ít nước chảy ra. D’Arimathie la lớn là “Thầy đã chết thật rồi” và nói với lính canh, đã được mua chuộc trước, là đừng đập gãy hai ống chân của Đức Giê-Su, (vì nếu đánh gãy hai ống chân, thì Đức Giê-Su sẽ chết liền trong vài phút), rồi chạy đi báo với Pilatus rằng Đức Giê-Su đã chết và xin phép mang xác Ngài về chôn. Pilatus cũng rất ngạc nhiên [Xem Phúc Âm, Marco XV, 44], vì chỉ mới 3 giờ đồng hồ mà Đức Giê-Su đã chết, nhưng vì đã ăn hối lộ của d’Arimathie rồi, nên cho phép d’Arimathie đem xác Đức Giê-Su về chôn, một điều mà chưa có tiền lệ. Còn “giấm” thì thật ra là thuốc mê, mà thời Đức Giê-Su, người ta đã biết thứ thuốc đó (theo các tác giả trên, họ đoán, nhưng không chắc, là có thể thuốc phiện trộn với cà dược (belladone) cùng một ít thứ thuốc khác để gây mê). Đức Giê-Su bị đóng đinh gần một cái vườn (vườn của d’Arimathie, và có thể là vườn Gethsémanie), trong đó có một cái huyệt đá mới [Xem Phúc Âm, Gioang XIX, 41]. D’Arimathie đem “xác” Đức Giê-Su vào chôn trong huyệt đá. Trời đã nhem nhem tối, nên dân chúng đứng ở xa, không thấy rõ, vả lại là vườn tư nhân, dân chúng không được vào. Đức Giê-Su được d’Arimathie, Nicodème, một đảng viên mật và vài đảng viên của giáo phái lo chữa trị, thuốc men cho Đức Giê-Su, rối Đức Giê-Su từ từ bình phục trở lại, tuy còn yếu. Các đồng chí phác họa cuộc đi trốn của Đức Giê-Su, vì nếu Ngài bị bắt lại, e Ngài phải chết. Sáng chủ nhật Đức Giê-Su gặp Bà Maria Magdala (Marie Madeleine/Maria Magdalene), theo các tác giả trên, là Phu Nhân của Đức Giê-Su, để từ biệt [Theo truyền thuyết, Bà Magdala là một người giàu có, sau khi La-Mã chiếm Palestine, vào những năm 70, Bà đã trốn sang Saintes-Maries-de-la-Mer, Marseille, sau cùng lên tu Thiền, trong một cái động, ở Sainte-Baume, trong khoảng 30 năm, cách Marseille khoảng 60 km, về phía đông bắc. Cách đây, khoảng 55 năm, tôi có đến viếng mộ của Bà và cái sọ của Bà được thờ tại nhà thờ Saint-Maximin], rồi Đức Giê-Su đi trốn cùng với môn đệ của Ngài là Thomas sang phía Bắc Ấn-Độ và Đức Giê-Su chết già ở đó. Chuyện Đức Giê-Su chết đi, rồi sống lại, do thần thông của Tạo-Hóa Ngôi Hai Giê-Su, thì theo các tác giả trên là do Vatican bịa ra.
Độc giả muốn biết sơ sơ về 4 cuốc sách trên, thì nên xem qua cuốn “L’Enigme Sacrée” , từ trang 381 đến trang 391, cũng có được vài ý niệm về 4 cuốn sách kể trên. Hết Phụ Trang.
Chuyện nầy, độc giả có tin hay không là tùy từng độc giả. Mục đích của tôi viết lên đây để nói chuyện Đức Giê-Su có phải là Tạo-Hóa hay không. Đây là một cuộc bàn cãi rất sôi nổi, giữa các nhà Triết Lý Học, Thần Học, Khoa Học, trên thế giới vào những thế kỷ thứ XX và XXI nầy.
Ở các nước Âu, Mỹ, ngày nay (thế kỷ thứ 21) cũng có nhiều người công giáo (đã chịu phép rửa tội, phép thêm sức) nhưng không tin Đức Giê-Su là Tạo-Hóa. Họ theo thói thường mà nhiều người đang làm (danh từ mới gọi là Thời Thượng/Mode/Way of live), chỉ đi nhà thờ khi rửa tội, đám cưới, đám ma. Họ không “xưng tội” hay đi lễ ngày Chủ Nhật như pháp lệnh của đạo Ki-Tô La-Mã. Người ta ước tính tại Pháp chỉ có 2% người công giáo giữ đạo trọn vẹn. Mặt khác ở Âu, Mỹ thiếu “Ơn kêu gọi” (Vocation/Vocation), cho nên, ở phần đông các nhà thờ, các linh mục là người Phi Châu da đen, hay người Á Châu (ở Pháp, phần đông là linh mục người Việt). Có vài anh bạn nói chơi: “Lúc trước Tây Phương đi rao giảng đạo Ki-Tô cho những nước chậm tiến, thì nay ngược lại, những nước chậm tiến lại đến rao giảng Ki-Tô giáo ở những nước Tây Phương”.
Một chuyện khác, hết sức khéo léo, của các giáo sĩ Ki-Tô giáo, là khi mới sinh ra, thì phải chịu “phép rửa tội” , nếu không thì mang “tội tổ tông” (tội của ông A Đam và bà Ê Va) và sẽ xuống Địa Ngục. Óc não của trẻ thơ đang còn non nớt, lại nhấn vào óc não của các em những giáo lý Ki-Tô, để sau đó, khi lớn lên khó mà quên được cho đến già. Hiện ở Âu Mỹ, một số gia đình không cho con cái, còn nhỏ, chịu “phép rửa tội” , mà để chúng lớn lên, có suy nghĩ, thì tự chúng muốn theo hay không muốn theo một tôn giáo nào đó.
Theo tôi, thì ngày nay và cả trước nữa, có thể có một số giáo dân Ki-Tô giáo La-Mã cũng không tin Đức Giê-Su là Tạo-Hóa, ngay cho (không chắc chắn) cả hàng giáo sĩ như linh mục, giám mục, hồng y hay có thể cả một số giáo hoàng, nhưng hàng giáo sĩ không dám nói lên. Ví dù cho giáo hoàng không có “Đức Tin” cũng không dám nói, vì nói ra thì 1,3 tỷ người công giáo sẽ hoảng loạn lên, còn hàng giáo sĩ thì sợ bị “dứt phép thông công” , bị đuổi ra khỏi giáo hội Ki-Tô La-Mã, làm mất tất cả quyền lợi tinh thần to lớn mà họ đang có. Chỉ học có 4 hay 5 năm, cho đi tương đương với “Cử Nhân” , nhưng một người có bằng Cử Nhân, cũng phải chạy vạy hàng tháng, để kiếm việc làm nuôi thân, thì các linh mục, một bước, đã nhảy lên làm Cha (đại diện cho Đức Tạo-Hóa Giê-Su). Các cụ tuổi bằng ông, bằng cha phải gọi các linh mục trẻ bằng Cha và xưng con, chưa nói đến các giám mục, hồng y, có quyền hạn tinh thần vô biên đối với giáo dân Ki-Tô giáo. Cũng như các ông sư, mới biết vài câu kinh, vài tiếng kệ đã tự xưng là Thầy và bắt Phật tử, tuổi bằng cha mẹ mình, xưng con. Ở Âu, Mỹ, phần nhiều (rất may là không phải tất cả) các ông sư, bà vãi, ít học, trở thành triệu phú nhờ sự cuồng tín của Phật tử.
Tôi tôn trọng tín ngưỡng của mỗi người, tôi tôn trọng tất cả các tôn giáo, vì tôi thấy con người quá nhỏ bé, quá mỏng manh trên Trái Đất nầy, chứ đừng nói đến sự bao la, huyền diệu của Vũ-Trụ, vì thế con người phải tin tưởng vào một cái gì, vào một vị Thần, vị Thánh nào đó, để xin cứu giúp, trong những lúc bi hoạn nạn hết cách chống đỡ. Tôi có đọc một hồi ký chiến tranh: Một anh đại đội trưởng, người theo đạo Công Giáo, bị địch vây tứ phía, “con cái” của anh gồm khoảng 100 thuộc hạ, mà đã có trên 60 người tử thương và bị thương, hai máy truyền tin đều bị gãy, hết đường liên lạc với bộ chỉ huy hay quân bạn. Anh quỳ xuống nhìn “con cái” mà khóc ròng vì đã hết đường xoay xở. Anh nhìn lên trời, đọc kinh “Kính Mừng” và anh nói trong khi quá bấn, anh cũng niệm Đức Quán Thế Âm… Cũng may, trong khi dìu dắt nhau một cách vô vọng, thì gặp được quân bạn, nhờ có máy truyền tin, nên anh ta liên lạc được với bộ chỉ huy, và sau đó đã có trực thăng đến đánh phá và đưa cả đại đội anh, gồm “con cái” còn sống, thương binh và tử binh về bộ chỉ huy… Theo tôi đây cũng chỉ là chuyện trùng hợp, chứ không phải anh cầu Đức Mẹ Maria, Đức Quán Thế Âm, mà được thế, và tôi tin anh ta sau nầy cũng không bỏ đạo Công Giáo. Chính tôi, là một Phật tử nhỏ bé, nhưng tôi tin có Tạo-Hóa. Tôi biết Phật Pháp ít hơn giáo lý đạo Công Giáo nhiều (trong 12 năm, học từ lớp Năm, đến lớp Đệ Nhất, tôi đã để 10 năm, học các trường Bà Xơ, Cha Cố và Thầy Dòng de La Salle). Theo Đức Thích Ca thì “Mình làm, mình chịu” (Luật Nhân Quả), chứ không cầu Trời, Đất, Phật, Thánh gì được cả, thế mà tôi, lúc gặp những chuyện nan giải, tôi cũng niệm Đức Quán Thế Âm (một sản phẩm của các ông thầy tu luận sư của Tàu, chứ không do Phật Giáo Nguyên Thủy mà có) [Theo Thích Chân Tuệ ở một chùa bên Canada thì phải, nếu tôi không lầm], và đôi khi, tôi cũng đọc kinh “Kính Mừng” để cầu Đức Mẹ Maria! Cổ nhân ta có câu “Có Sự thì vái Tứ Phương” là thế đó. Đến chùa chỉ nghe niệm Phật A Di Đà (sau khi chết, được Đức Phật A Di Đà đưa về cõi Tây Phương, Cực Lạc) hay niệm Phật Quán Thế Âm (để được ân huệ), còn ít khi nghe niệm Đức Phật Thích Ca. Theo tôi, nếu các chùa không cho Phật tử “cầu xin” , thì e các chùa phải đóng cửa, hay rất ít bổn đạo lui tời. Có một vài ông sư biết chuyện “Phật A Di Đà, Phật Quán Thế Âm…” là sản phẩm của phái Đại Thừa Trung Hoa, nhưng các ông sư nầy, nói là không sao cả, vì đó chỉ là “Phương Tiện” để tu học Phật Pháp, để khỏi mất bổn đạo, và để tiếp tục làm triệu phú chăng?
Tôi viết những hàng trên, không có ý phạm đến đạo Công Giáo mà tôi rất kính phục các nhà tu sĩ đã làm những điều thiện to lớn cho xã hội (sau nầy, các tôn giáo khác mới bắt chước), và phương châm “Thương Người như chính Mình vậy” . Tôi viết ra để nói vì sao mà các vị hữu trách tiền nhân của hầu hết các nước Châu Á lại cản, cấm đạo Ki-Tô. Ở thế kỷ thứ 21, còn có một số người Âu, Mỹ đã chịu phép “Rửa Tội” lúc còn nhỏ, khi lớn lên, họ cũng không tin Đức Giê-Su là Tạo-Hóa, huống hồ là các nhà hữu trách tiền nhân của chúng ta ở hầu hết các nước Á Châu, nên các vị, vì bổn phận “Dân chi Phụ Mẫu” (Cha Mẹ của Dân) đã cấm cản đạo Ky-Tô, để cho dân đừng tin ở “Tà Đạo” (theo quan niệm của tiền nhân).
b) Nguyên nhân thứ hai
“Thờ Cúng Ông Bà”. Chuyện thờ cúng Ông Bà đã có từ thời Tiền Sử. Tiền nhân của hầu hết nhân loại đều lo chỉnh đốn mồ mả của Ông Bà, Cha Mẹ quá cố, có ý là nhớ thương, nhớ ơn công lao dưỡng dục (nuôi nấng và dạy dỗ) của Ông Bà, Cha Mẹ, và theo thời gian, ở Á Châu, phần nhiều gia đình nào cũng có bàn thờ Ông Bà, Tổ Tiên, ngoài các từ đường của mỗi họ. Thờ Ông Bà cũng không ngoài ý nghĩ đã trình trên, chứ không cho Ông Bà mình là Thần Thánh gì cả. Chữ Hiếu, càng ngày càng rộng hơn, như con cái phải tôn kính cha mẹ, ông bà, phải lo chăm sóc cha mẹ, ông bà… và từ đó biến thành các hành vi ứng xử đạo đức trong xã hội mà luật pháp phải thừa nhận. Hỗn láo với cha mẹ, ông bà là phạm tội trước luật pháp; đi thi (3 năm một lần) mà nếu cha mẹ, ông bà mất, thì phải ngừng thi, để về chịu tang…
Thế mà các giáo sĩ Ki-Tô không hiểu điều đó, lại cho là đi thờ Ma Quỷ, nên cấm các giáo dân thờ Ông Bà. Mặc dầu, có vài thừa sai cảm thông về sự thờ cúng Ông Bà của người Á Châu, nhưng các giáo hoàng thời đó (Innocent X và Alexandre VII), triệt để không chấp nhận. Cũng như Pigneau có bàn cãi với Nguyễn Ánh về chuyện lạy Ông Bà của Thế Tử Cảnh và Pigneau cũng nhận thấy chuyện thờ cúng Ông Bà và thờ Trời (Tạo-Hóa) là hai chuyện khác nhau và đã trình cho giáo hoàng Clément XIV, nhưng giáo hoàng cho là thờ Ma Quỷ, nên không cho phép.
Dưới thời Pháp thuộc còn tệ hơn. Các giáo sĩ Pháp dựa theo phong tục của Pháp lúc bấy giờ, nên trong đám tang, thì linh cữu phải sơn đen, bàn đám thì chỉ trang hoàng bằng vải trắng, đen, không được sơn linh cữu bằng màu đỏ, bàn đám tang cũng không được trang hoàng bằng các màu xanh, đỏ, lục vàng, không được thắp hương… (chính mắt tôi thấy), vì cho đó là tượng trưng cho Ma Quỷ. Cũng vì thế, người ta có cảm tưởng là người theo đạo Công Giáo đứng ngoài lề của xã hội. Mãi đến những năm 1957, 1958, dưới nền đệ nhất Cộng Hòa Miền Nam, người theo đạo Công Giáo mới được thắp hương để hoà mình vào xã hội truyền thống của Việt Nam. Và sau đó có cộng đồng Vatican II (1962), người theo đạo Công Giáo mới chính thức hòa đồng vào xã hội. Hiện giờ, ta thấy ở các nhà thờ Công Giáo có hương, trầm, đèn đuốc như ở các chùa hay đền thờ của các đạo khác ở Việt Nam.
Năm 1996, tôi có về thăm Việt Nam với hai đứa con tôi, chúng tôi có đi thăm một ngôi nhà thờ ở gần chùa Vĩnh Nghiêm, trên đường Lý Chính Thắng, thì thấy trước hiên nhà thờ có để một cái chuông chùa (ở phía dưới nó không lòe ra, mà hình trụ), và được đánh bằng một dùi gỗ. Hai tiếng chuông nhà thờ và chuông chùa khác nhau. Tiếng chuông nhà thờ (chuông phần dưới lòe ra), được treo trên tháp chuông, được đánh rất nhanh, để hối thúc giáo dân đến cho kịp dự Thánh Lễ, tiếng chuông có âm thanh rất cao, trung bình là 400Hz, tương ứng với nốt La3, còn chuông chùa (phần dưới hình trụ) được đánh chậm, âm thanh trầm và ngân nga đến cả mấy cây số, tần số trung bình là 147Hz, tương ứng với nốt Ré2, làm cho tâm hồn người nghe được trầm lặng, thoải mái.
2) Cấm đạo
Vua, Chúa nước ta và các nước Á Châu, đã đối đãi tử tế, lễ phép với các thừa sai, vì họ có kiến thức khoa học hơn tiền nhân của chúng ta, nhưng họ đem “Tà Đạo” (theo quan niệm của tiền nhân) vào dạy dân của chúng ta, nên các vị vua chúa Á Châu đã thành khẩn mời các thừa sai ra khỏi nước ở Á Châu.
Ở Việt Nam, như cụ de Rhodes bị mời đi 4 lần [Theo Thụy Khuê trong “Khảo sát công trạng những người Pháp giúp vua Gia Long” ], rồi cũng lén lút trở về Đại Việt, hay giám mục Dominique Lefèbvre (tên Việt là Pha-ba-ly-e) cũng được mời đi nhiều lần, một cách long trọng, thế mà một lần được mời đi, là một lần chui rúc về Đại Nam cho được, nhờ các giáo dân che chở, để làm giám mục Gia Định, để rao giảng thêm, càng đông người theo Ki-Tô giáo La-Mã càng tốt, và cho đó là một vinh hạnh trước Thiên-Chúa [Xem Dominique Lefèbvre tên Wikipedia, và Nguyễn Quóc Trị, sđd, trang 703, NQTrị trích dẫn sử gia Phan Khoang]. Đây chỉ nói đến de Rhodes và Lefèbvre, nhưng hầu hết các thừa sai khác (có hàng chục người) đều làm như vậy cả, chưa nói đến là họ còn lén lút đưa thêm thừa sai, càng nhiều càng tốt, vào Đại-Nam để rao giảng, mua chuộc dân chúng ở nông thôn, ít học (khoảng 90 đến 95%). Rồi càng ngày, càng đông thừa sai đến Đại-Nam, nên vua, chúa của chúng ta phải cấm “Tà đạo” trong dân chúng.
Cũng nên nhớ là các thừa sai thực dân, ăn lương hàng năm của các vị vua Pháp. [Xem Nguyễn Charlie “Tuyển Tập Độc Thần Giáo: Tội ác của Hội Thừa Sai Paris và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong lịch sử mất nước hồi cuối thế kỷ 19” .].
3) Vì sao bách hại những thừa sai và những người đầu não theo đạo Ki-Tô
Lịch sử Pháp không nói đến những phạm pháp tày trời của các thừa sai, mà chỉ nói đến sự bách hại các thừa sai và giáo dân của họ!
Các vua Minh-Mạng, Thiệu-Trị và Tự-Đức không muốn bách hại những người theo đạo Công Giáo, chỉ muốn cấm “Tà Đạo” và mời các giáo sĩ ra khỏi nước Việt-Nam, nhưng càng mời họ đi, thì họ lại chui rúc về lại Việt-Nam và xúi dục dân theo đạo Công Giáo (phần đông là ít học) chống lại triều đình, nên các vị vua trên mới giết để làm gương cho quốc dân. Sau đây tôi xin dẫn chứng qua loa vài trường hợp:
Nguyễn Vĩnh-Tráng.
Tiết Hàn Lộ, năm con Cọp
109 102 022 nvt*ttl*
Xin xem tiếp Phần IV.
Có khoảng 65 Tài Liệu tham khảo. Xin xem ở cuối bài viết.