Phó Thủ tướng Lê Văn Thành: Ưu tiên bố trí nguồn lực hoàn thành tuyến đường cao tốc Bắc Nam
Báo cáo một số nội dung liên quan đến tổng thể triển khai đường cao tốc trong giai đoạn tới, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành cho biết, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm giai đoạn 2021-2030 ba mươi, chúng ta đặt mục tiêu đến năm 2025 hoàn thành 3,000 km đường cao tốc, tới năm 2030 hoàn thành 5,000 km đường cao tốc.
Phó Thủ tướng Lê Văn Thành: Ưu tiên bố trí nguồn lực hoàn thành tuyến đường cao tốc Bắc Nam
Theo chia sẻ của Phó Thủ tướng Lê Văn Thành, trên cơ sở Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị đã xác định tuyến đường cao tốc Bắc Nam giai đoạn 2021-2025 phải được hoàn thành, phải ưu tiên bố trí nguồn lực để triển khai dự án này. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã trình Quốc hội và đã được Quốc hội thông qua kế hoạch và đầu tư công trung hạn, bổ sung nguồn vốn từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội bố trí cho đường cao tốc.
Về các danh mục triển khai đường cao tốc trong giai đoạn 2021-2025, sẽ tập trung vào các dự án lớn sau: tuyến cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020 có chiều dài là 654 km; tuyến cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 có chiều dài 729 km. Chính phủ đã trình Quốc hội tại Kỳ họp này 05 tuyến cao tốc có chiều dài 549 km. Như vậy, tổng chiều dài toàn bộ các tuyến cao tốc đang triển khai là 1,932 km, số km đường cao tốc đã hoàn thành tới thời điểm hiện nay là 1,290 km. Như vậy, tính cả các công trình đã hoàn thành đưa vào khai thác và các công trình đang triển khai, chúng ta có 3,222 km cao tốc.
Về tiến độ triển khai cụ thể các dự án, tuyến cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020 đã được Quốc hội phê chuẩn chủ trương đầu tư năm 2017 với chiều dài 654 km, đã khởi công rải rác trong 3 năm 2019, 2020 và 2021, sẽ hoàn thành toàn tuyến vào năm 2023.
Tuyến cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 với chiều dài 729 km được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường tháng 01/2022 vừa qua, hiện nay đã triển khai lập dự án đầu tư, kiểm đếm, cắm mốc chỉ giới, lập phương án đền bù, toàn bộ 729 km sẽ khởi công vào năm 2022, phấn đấu hoàn thành vào năm 2025, thông toàn bộ tuyến cao tốc Bắc Nam vào năm 2025 với tổng chiều dài là 2063 km từ Lạng Sơn đến Cà Mau.
Các tuyến còn lại, tuyến Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, tuyến Biên Hòa - Vũng Tàu, tuyến Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột dự kiến khởi công tháng 6 năm 2023 nếu được Quốc hội thông qua tại kỳ họp này, cơ bản hoàn thành vào năm 2025 và đưa vào khai thác, sử dụng năm 2026.
Đường vành đai 3 Tp.Hồ Chí Minh và đường vành đai 4 vùng Thủ đô sẽ khởi công vào tháng 6 năm 2023, năm 2023 và cơ bản hoàn thành vào năm 2026.
Phó Thủ tướng Chính phủ cho biết, Chính phủ sẽ quyết tâm cao để thực hiện bằng được mục tiêu mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đặt ra, hoàn thành 3,000 km đường cao tốc đến năm 2025, 3,500 km đường cao tốc đến năm 2030. Phó Thủ tướng Chính phủ mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ, chia sẻ, cùng giám sát của Quốc hội trong việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.
Chủ tịch Quốc hội gợi ý 4 nhóm giải pháp cho ngành GTVT
Qua phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội đề nghị Bộ trưởng Giao thông vận tải, các bộ trưởng, trưởng ngành có liên quan tiếp thu tối đa ý kiến đóng góp của đại biểu Quốc hội, chỉ đạo quyết liệt thực hiện các giải pháp đã đề ra, nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, trong đó tập trung vào một số vấn đề chính:
Thứ nhất , tiếp tục rà soát, xây dựng, hoàn thiện các quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt; triển khai quyết liệt các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Chính phủ để đẩy nhanh việc phê duyệt, tiến độ triển khai dự án; giải ngân vốn đầu tư công, nhất là các dự án trọng điểm quốc gia theo nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm khả thi cả về tiến độ và bố trí vốn cũng như chất lượng công trình; đồng thời triển khai hàng loạt dự án quốc gia theo Nghị quyết của Quốc hội.
Thứ hai , phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương bảo đảm dự án phù hợp với các quy hoạch liên quan không gian phát triển kinh tế-xã hội của địa phương nhằm phát huy hiệu quả đầu tư; khẩn trương giải quyết dứt điểm những vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng phục vụ triển khai các dự án, công trình giao thông trọng điểm quốc gia.
Thứ ba , kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm chất lượng, tiến độ từ các bước khảo sát, lập hồ sơ thiết kế, dự toán đến công tác lựa chọn nhà thầu, ký kết hợp đồng và triển khai thi công, kiểm soát chất lượng đầu vào đến kiểm soát quy trình thi công, công tác thí nghiệm, nghiệm thu; tăng cường tần suất kiểm tra hiện trường để kịp thời chấn chỉnh các tồn tại, bất cập; lựa chọn chủ đầu tư, Ban quản lý dự án có đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện dự án; yêu cầu Ban Quản lý dự án, nhà thầu có tiến độ tổng thể, chi tiết, ký cam kết về tiến độ hoàn thành dự án; theo dõi, kiểm soát chặt chẽ tiến độ; kiên quyết xử lý các trường hợp tiêu cực; nâng cao hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm trong công tác quản lý, phòng, chống tham nhũng trong quá trình thực hiện dự án đầu tư xây dựng; quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong từng khâu, từng công việc, từ vị trí có thể tiềm ẩn nguy cơ nguy cơ tham nhũng, tiêu cực của đơn vị; chủ động phòng ngừa, tập trung thanh tra, kiểm tra các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực; tăng cường tổ chức kiểm tra, thanh tra định kỳ, đột xuất các dự án trọng điểm trong quá trình tổ chức triển khai.
Thứ tư , đẩy nhanh tiến độ giải quyết các thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn về nguồn vật liệu, đặc biệt là giải quyết khó khăn về nguồn cung cấp vật liệu san lấp tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long; kiểm tra việc xây dựng, công bố giá, chỉ số giá các loại vật liệu xây dựng theo đúng quy định của pháp luật; kiểm soát tình trạng biến động giá nguyên, nhiên vật liệu xây dựng và xử lý nghiêm các hành vi đầu cơ, nâng giá trục lợi; phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trình cấp có thẩm quyền có phương án giải quyết dứt điểm những vướng mắc, bất cập, tồn tại trạm thu phí Dự án BOT nhanh trong năm 2022 trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích của nhân dân, Nhà nước, nhà đầu tư; Nhà nước chỉ hỗ trợ đối với những nguyên nhân khách quan, bất khả kháng trên cơ sở chia sẻ rủi ro, thực hiện các biện pháp đẩy nhanh tiến độ triển khai hệ thống thu thuế điện tử theo yêu cầu tại Nghị quyết 43 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; tiếp tục chỉ đạo các nhà cung cấp dịch vụ tập trung rà soát, hoàn thiện quá trình vận hành, có biện pháp phát huy tối đa hiệu quả hệ thống thu phí tự động không dừng.
Nhật Quang