Phát triển 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao tại ĐBSCL
Đề án được xem là bước ngoặc rất quan trọng đối với ngành hàng lúa gạo ĐBSCL cũng như cả nước trước thềm năm mới.
Ngày 5/2, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với tỉnh Kiên Giang tổ chức hội nghị triển khai Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang dự và chỉ đạo hội nghị. Đại diện lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các Bộ, ngành Trung ương, đơn vị có liên quan, 12 tỉnh, thành đồng bằng sông Cửu Long thuộc vùng dự án tham gia.
Phát biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các Bộ, ngành liên quan và 12 tỉnh, thành đồng bằng sông Cửu Long phối hợp chặt chẽ trong triển khai thực hiện đề án một cách linh hoạt, sáng tạo, chú trọng đến các thể chế thay đổi, rào cản phải được xoá đi để lồng ghép nhiều chương trình với nhau thực hiện thắng lợi đề án.
Phó Thủ tướng Chính phủ lưu ý trong việc huy động nguồn lực kinh phí đảm bảo thực hiện đề án hiệu quả đúng mục tiêu đề ra. Phó Thủ tướng Chính phủ cam kết đồng hành cùng các Bộ, ngành liên quan, địa phương, doanh nghiệp và bà con nông dân trong thực hiện đề án.
Đề án triển khai tại 12 tỉnh, thành đồng bằng sông Cửu Long, gồm: An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Long An, Sóc Trăng, Cần Thơ, Bạc Liêu, Trà Vinh, Hậu Giang, Cà Mau, Tiền Giang và Vĩnh Long, với diện tích 1 triệu ha.
Thực hiện vùng chuyên canh lúa này gắn với tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững nhằm gia tăng giá trị, phát triển bền vững của ngành lúa gạo, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập và đời sống của người trồng lúa, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện các cam kết quốc của Việt Nam.
Mục tiêu đến năm 2025, diện tích canh tác vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp đạt 180.000ha, giảm lượng lúa giống gieo sạ xuống 80 - 100 kg/ha, giảm 20% lượng phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học, giảm 20% lượng nước tưới so với canh tác truyền thống, 100% diện tích áp dụng ít nhất một quy trình canh tác bền vững như 1 phải 5 giảm, tưới ngập khô xen kẽ, tiêu chuẩn sản xuất lúa bền vững (SRP), các tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt được chứng nhận và được cấp mã số vùng trồng.
Theo đó, 100% diện tích sản xuất vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp có liên kết giữa doanh nghiệp với tổ hợp tác, hợp tác xã, các tổ chức của nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Tỷ lệ cơ giới hóa đồng bộ đạt trên 50% diện tích; hơn 200.000 hộ áp dụng quy trình canh tác bền vững; tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch dưới 10%; 70% rơm tại các vùng chuyên canh được thu gom khỏi đồng ruộng và được chế biến tái sử dụng; giảm trên 10% lượng phát thải khí nhà kính so với canh tác lúa truyền thống.
Giá trị gia tăng trong chuỗi lúa gạo tăng 30%, trong đó, tỷ suất lợi nhuận của người trồng lúa đạt trên 40%; lượng gạo xuất khẩu chất lượng cao và phát thải thấp chiếm trên 20% tổng lượng gạo xuất khẩu của toàn vùng chuyên canh.
Đến năm 2030, diện tích canh tác vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp đạt một triệu ha. Giảm lượng lúa giống gieo sạ xuống dưới 70 kg/ha, giảm 30% lượng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học, giảm 20% lượng nước tưới so với canh tác truyền thống.
100% diện tích áp dụng ít nhất một quy trình canh tác bền vững như 1 phải 5 giảm, SRP, tưới khô xen kẽ và các tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt được chứng nhận và được cấp mã số vùng trồng.
100% diện tích sản xuất vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp có liên kết giữa doanh nghiệp với tổ hợp tác, hợp tác xã, các tổ chức của nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Tỷ lệ cơ giới hóa đồng bộ đạt trên 70% diện tích; trên 1 triệu hộ áp dụng quy trình canh tác bền vững; tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch dưới 8%, 100% rơm được thu gom khỏi đồng ruộng và được chế biến tái sử dụng; giảm trên 10% lượng phát thải khí nhà kính so với canh tác lúa truyền thống.
Giá trị gia tăng trong chuỗi lúa gạo tăng 40%, trong đó, tỷ suất lợi nhuận người trồng lúa đạt trên 50%. Lượng gạo xuất khẩu mang thương hiệu trên 20% tổng lượng gạo xuất khẩu của toàn vùng chuyên canh.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam nêu: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các Bộ, ngành liên quan, 12 tỉnh, thành thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp.
Trong đó, tập trung các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, gồm: Lựa chọn, xây dựng vùng tham gia đề án; rà soát, áp dụng, hoàn thiện các gói kỹ thuật đảm bảo tiêu chí phát triển bền vững; tổ chức lại sản xuất và đào tạo tập huấn nâng cao năng lực; đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng tại vùng chuyên canh; huy động nguồn lực, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ các quỹ tài chính cac-bon, các quỹ hỗ trợ trên thế giới; áp dụng hiệu quả các cơ chế, chính sách hiện hành.
Nguồn vốn thực hiện đề án từ ngân sách nhà nước trung ương và địa phương, nguồn tín dụng, nguồn xã hội hóa từ các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; các nguồn vốn tài trợ không hoàn lại, nguồn vốn vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và nguồn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Trong đó, nguồn vốn chính là từ nguồn viện trợ không hoàn lại, vốn vay, vốn tín dụng và nguồn thu từ tín chỉ cac-bon.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất lúa gạo chính của Việt Nam. Sản lượng lúa sản xuất tại vùng này gần đây luôn ổn định ở mức 24 - 25 triệu tấn/năm, chiếm trên 55% sản lượng lúa, 90% lượng gạo xuất khẩu cả nước.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đề án áp dụng quy trình canh tác bền vững giảm phát thải sẽ góp phần giảm phân bón và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học, giảm lượng giống sử dụng.
Đồng thời việc tổ chức lại sản xuất, tăng cường áp dụng cơ giới hóa sẽ góp phần giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo. Với mục tiêu giảm 20% chi phí đầu vào, đề án sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất lúa của các hộ nông dân khoảng 9.500 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các quy trình xử lý và tái chế phụ phẩm, xây dựng thương hiệu gạo phát thải thấp sẽ góp phần nâng cao giá trị toàn chuỗi lúa gạo lên 40%, trong đó, tỷ suất lợi nhuận của người trồng lúa tăng 50%.
Dự kiến một triệu hộ trồng lúa sẽ áp dụng canh tác bền vững; 100% các hộ, hợp tác xã trong vùng chuyên canh được đào tạo nâng cao nhận thức, trình độ canh tác.
Việc áp dụng quy trình canh tác giảm phát thải sẽ góp phần nâng cao thu nhập, đảm bảo an sinh xã hội cho hộ trồng lúa, nâng cao vị thế của người nông dân, chất lượng và uy tín của ngành hàng lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Đề án góp phần quan trọng bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần giảm trên 10% lượng khí nhà kính phát thải.
Việc triển khai đề án sẽ góp phần chuyển đổi tư duy, nhận thức, phương thức sản xuất của các chủ thể tham gia đề án theo hướng xây dựng các vùng nguyên liệu lúa giảm phát thải quy mô lớn theo chuỗi giá trị liên kết giá trị.