Ông Nguyễn Bích Lâm: Lạm phát năm 2022 sẽ không quá 4,5%

Chia sẻ Facebook
12/05/2022 20:45:37

Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê dự báo, lạm phát năm nay sẽ ở mức từ 4 - 4,5% và nêu ra 3 yếu tố đè nặng lên lạm phát.

Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2022-2023 Kịch bản tăng trưởng và triển vọng một số ngành kinh tế chính diễn ra sáng 12/5, TS. Nguyễn Bích Lâm, Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê dự báo, lạm phát của Việt Nam năm 2022 nằm trong khoảng 4% - 4,5%.

Mức lạm phát này được đưa ra trong tình trạng nền kinh tế gặp hàng loạt tác động tiêu cực từ lạm phát chuỗi cung ứng, thiếu hụt nguồn cung, tổng cầu tăng đột biến, thiếu hụt lao động và dự kiến tăng lương tối thiểu vùng.

Bên cạnh đó, giá xăng dầu, giá điện dự báo tăng do nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng trong thời gian tới, giá lương thực gia tăng theo giá lương thực thế giới, giá thực phẩm, đặc biệt giá thịt dự báo tăng vì giá thức ăn chăn nuôi tăng do đứt gãy chuỗi cung ứng và nhu cầu tiêu dùng cuối năm tăng, TS. Lâm cho biết.

Đồng thời, Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cũng dự báo, với độ trễ của gói phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và dự báo năm 2023 lạm phát vẫn ở mức cao so với lạm phát mục tiêu của các nền kinh tế là đối tác quan trọng của kinh tế Việt Nam, dự báo lạm phát năm 2023 của Việt Nam khoảng 5%- 5,5%.

Lạm phát cả giai đoạn 2021-2025 khoảng 4% - đạt mục tiêu kế hoạch đề ra trong kiểm soát lạm phát cả thời kỳ kế hoạch 5 năm, TS. Lâm cho hay.


3 yếu tố chính gây áp lực lạm phát năm 2022

Phân tích kỹ hơn về lạm phát năm 2022, TS. Lâm chỉ ra 3 yếu tố chính cấu thành nên lạm phát giai đoạn 2022 và cả 2023.


Trong đó, lạm phát chuỗi cung ứng là nhóm yếu tố tạo áp lực lớn nhất đến lạm phát của nền kinh tế trong thời gian tới. Kinh tế nước ta có độ mở lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, với tỷ lệ 37% chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu trong tổng chi phí nguyên vật liệu của toàn nền kinh tế; tỷ lệ này trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo - ngành có vai trò là động lực tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế chiếm 50,98%.

Xung đột Nga – Ukraine đã khiến giá nguyên liệu của nhiều mặt hàng tăng cao. Bên cạnh đó, chính sách zero COVID-19 và việc Trung Quốc tăng trưởng chậm lại cũng ảnh hưởng nặng nề đến lạm phát của Việt Nam.

Nguyên vật liệu của Trung Quốc đối với Việt Nam rất quan trọng, hiện nay, kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc đang chiếm tới 1/4 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam.

Nhiều ngành sản xuất của Việt Nam phụ thuộc lớn vào nguyên vật liệu Trung Quốc như ngành: Dệt may, thuốc lá hiện nguyên liệu nhập khẩu Trung Quốc đang chiếm khoảng 1/3 tổng tư liệu sản xuất, các ngành phân bón, thuốc trừ sâu, chất dẻo, sợi dệt, vải, sắt thép,... thậm chí mức độ phụ thuộc vào nguyên vật liệu Trung Quốc còn cao hơn nữa.


Thứ hai là, giá nguyên nhiên vật liệu tăng cao . Kinh tế Việt Nam có đặc điểm khi giá nguyên vật liệu tăng 1% thì giá sản phẩm đầu ra tăng 2,06%, đồng nghĩa với gia tăng lạm phát của nền kinh tế, do đó rủi ro nhập khẩu lạm phát là không thể tránh khỏi trong bối cảnh các nền kinh tế là đối tác thương mại lớn, quan trọng hàng đầu của Việt Nam như Mỹ, EU, Hàn Quốc... đều dự báo lạm phát ở mức đáng lo ngại.


Thứ ba là, tổng cầu tăng đột biến trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng . Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội với quy mô 350 nghìn tỷ đồng cùng với các gói hỗ trợ của năm 2021 đang thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế sẽ làm cho tổng cầu tăng đột biến, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tăng mạnh sau thời gian dài chịu ảnh hưởng của đại dịch là áp lực lớn lên lạm phát trong năm 2022 và 2023, TS. Lâm phân tích.

TS. Nguyễn Bích Lâm, Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê


Giảm áp lực lạm phát, Việt Nam cần làm gì?


Để làm giảm áp lực lạm phát, theo TS. Nguyễn Bích Lâm, Việt Nam cần thực hiện hàng loạt biện pháp, trong đó có cả vai trò của Chính phủ các bộ ngành cũng như các doanh nghiệp.

Đối với Chính phủ, cần kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, rà soát bãi bỏ các quy định không hợp lý. Chính phủ, các bộ, ngành liên quan, đặc biệt cộng đồng doanh nghiệp cần đa dạng nguồn cung nguyên vật liệu.

Bộ Công Thương và Bộ Tài chính cần minh bạch và đơn giản hoá quy trình thương mại, khuyến khích và đẩy mạnh chia sẻ thông tin về thương mại và giá cả; thúc đẩy cạnh tranh trong nước đối với lĩnh vực logistics, thương mại bán buôn và bán lẻ để giảm chi phí thương mại trong nước và quốc tế, giữ khả năng cạnh tranh và thị phần của hàng hoá Việt trên thị trường thế giới.

Cùng với đó, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý nghiêm nếu phát hiện có hành vi đầu cơ, tích trữ, thao túng giá. Đối với các mặt hàng thiếu hụt trong dài hạn cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư sản xuất các mặt hàng này, chủ động nguồn nguyên vật liệu, tăng tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ, thực hiện hài hoà chính sách tài khoá và tiền tệ. Sử dụng chính sách tiền tệ đúng liều lượng, hợp lý, không quá chú trọng vào chính sách tiền tệ để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng vì hỗ trợ tín dụng và hạ lãi suất cho vay dẫn tới gia tăng lạm phát và rủi ro cho hệ thống ngân hàng, TS. Lâm đề xuất.

Với cộng đồng doanh nghiệp, cần chủ động chuẩn bị đầy đủ các điều kiện đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa. Đối với các mặt hàng thiếu hụt trong ngắn hạn cần có giải pháp nhập khẩu kịp thời nguyên nhiên vật liệu, cắt giảm chi phí sản xuất; đối với các mặt hàng thiếu hụt dài hạn cần chủ động tìm kiếm nguồn hàng và đối tác cung ứng thay thế.

Bộ Công Thương cần nắm bắt kịp thời giá xăng dầu thế giới, nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, có giải pháp tổng thể đảm bảo đầy đủ nguồn cung xăng dầu dài hạn hơn. Bộ Tài chính cần rà soát và tính toán lại các mức chi phí trong cơ cấu tính giá cơ sở mặt hàng xăng dầu và các loại thuế, phí nhằm bảo đảm tính đúng, tính đủ, hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, người tiêu dùng và doanh nghiệp sử dụng xăng dầu.

Ban Chỉ đạo điều hành giá của Chính phủ cần theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, lạm phát trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ gây nên lạm phát trong nước; chỉ đạo các Bộ liên quan thực hiện hiệu quả và linh hoạt vai trò điều tiết, bình ổn giá các mặt hàng nhà nước quản lý.

Các cơ quan truyền thông cần thực hiện hiệu quả hoạt động truyền thông nhằm thông tin kịp thời, chính xác và rõ ràng về các chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, loại bỏ thông tin sai lệch về giá cả thị trường, không để xảy ra hiện tượng lạm phát do tâm lý từ thông tin sai gây ra, TS. Lâm cho hay.

Chia sẻ Facebook