Nhiều thách thức phát triển điện gió ngoài khơi
Dự thảo Quy hoạch điện VIII xác định mục tiêu quy mô điện gió ngoài khơi đạt 7 GW vào năm 2030 là bước quan trọng để hoàn thành mục tiêu Net Zero của Chính phủ.
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng điện gió ngoài khơi tốt nhất khu vực châu Á. Theo báo cáo của WB, tiềm năng điện gió ngoài khơi của Việt Nam có thể lên đến 600GW nếu tính đến các địa điểm xa bờ hơn. Đây cũng được xem là một trong những ngành năng lượng phát triển nhanh nhất trên thế giới, là động lực cho quá trình chuyển đổi năng lượng toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, trong xây dựng dự thảo Quy hoạch điện VIII , mục tiêu quy mô điện gió ngoài khơi vào năm 2030 đạt 7 GW.
Ông Bùi Vĩnh Thắng, Giám đốc quốc gia tại Việt Nam của Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC) cho rằng, đây là bước quan trọng để hoàn thành mục tiêu Net Zero của Chính phủ và loại bỏ dần việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, để đưa mục tiêu này trở thành cơ hội phát triển điện gió ngoài khơi sẽ không dễ dàng bởi lĩnh vực này còn non trẻ ở Việt Nam, đi kèm với cơ hội là thách thức và những phần việc cần giải quyết.
Cụ thể, theo ông Bùi Vĩnh Thắng, đó là cơ chế mua sắm đơn giản áp dụng cho các dự án đầu tiên quy mô 4-5 GW cùng lộ trình rõ ràng để triển khai đấu thầu thực hiện quy mô 2-3 GW còn lại trong thập kỷ này; một quy trình cấp phép rõ ràng, có phối hợp và sắp xếp hợp lý để đảm bảo thực hiện các dự án đúng thời hạn, đảm bảo độc quyền không gian biển cho công tác phát triển. Ngoài ra, phương pháp tiếp cận quy hoạch không gian biển cho phép xây dựng cơ chế tinh gọn để đảm bảo dự án có thể được triển khai trong thời gian tới, đồng thời xây dựng một khuôn khổ chi tiết hơn cho thế hệ dự án điện gió ngoài khơi tiếp theo.
Ngoài ra, cần xem xét quy hoạch lưới điện và nâng cấp hệ thống vận hành để tạo điều kiện tích hợp điện gió ngoài khơi, có kế hoạch và cơ chế cụ thể khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư vào hệ thống truyền tải để giải quyết các thách thức về truyền tải trong thời gian tới.
Tài chính cũng là một vấn đề cần được lưu tâm. Giám đốc quốc gia tại Việt Nam của GWEC cho biết, điện gió ngoài khơi cần nguồn vốn đầu tư lớn hơn nhiều so với điện gió trên bờ, nhiều khả năng cần sự tham gia của các ngân hàng quốc tế. Nhu cầu đầu tư cho một dự án điện gió ngoài khơi quy mô 500 MW cần khoảng 1,5 tỷ USD (hay 3 tỷ USD/GW) trong khi dự án trên bờ cần ít hơn 100 triệu USD (1,5 triệu USD/MW với quy mô dự án thường dưới 70 MW). Có nhiều phương án cấp vốn cho dự án điện gió trên bờ bao gồm vốn của nhà thầu, vốn tự có của doanh nghiệp và bảo lãnh của ngân hàng địa phương. Những phương án này chủ yếu do nhà đầu tư trong nước thực hiện.
Về quá trình thủ tục, ông Bùi Vĩnh Thắng cho rằng, để khởi động dự án, nhà phát triển phải có giấy phép khảo sát địa điểm cho khu vực dự án. GWEC khuyến nghị cấp phép khảo sát địa điểm độc quyền cho các dự án gió ngoài khơi. Điều này phù hợp với các đề xuất chính sách trên toàn cầu đảm bảo sự cân bằng thích hợp giữa lợi ích của các nhà phát triển và Chính phủ. Với tính độc quyền, các nhà phát triển sẵn sàng chi hàng chục triệu đô la cần thiết để thúc đẩy phát triển của các dự án gió ngoài khơi, qua đó cùng các Chính phủ đạt được các mục tiêu về an ninh năng lượng, cam kết Net-Zero và và đạt được khả năng dự đoán chi phí.