Ngành dầu khí Việt Nam cần thay đổi ra sao trước xu hướng dịch chuyển năng lượng toàn cầu?

Chia sẻ Facebook
21/10/2022 14:52:55

Ngành dầu khí Việt Nam đang phải đối mặt với các cơ hội và thách thức trong xu hướng chuyển dịch năng lượng trên toàn cầu, theo báo cáo vừa được Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) công bố ngày 19/10/2022.

Báo cáo “Xu hướng dịch chuyển năng lượng và hàm ý chính sách đối với ngành dầu khí tại Việt Nam” dự báo ngành công nghiệp khí đốt ở Việt Nam sẽ trở nên đầy hứa hẹn khi các ngành nhiên liệu hoá thạch không còn đóng vai trò quan trọng trong tổng cơ cấu nguồn điện của quốc gia – một nỗ lực để giảm phát thải khí nhà kính mà Việt Nam đã cam kết tại COP26.

Lễ công bố báo cáo của VESS (Ảnh: Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam)

Năm 2019, tổ chức EIA cho biết Việt Nam là nước tiêu thụ điện lớn thứ hai ở Đông Nam Á, chỉ sau Indonesia, và lớn thứ 22 trên thế giới. Theo dự báo, nhu cầu điện của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng 8% mỗi năm đến năm 2030, đồng nghĩa với việc công suất sản xuất điện phải tăng hơn gấp đôi trong vòng 10 năm với nhịp độ phát triển kinh tế như hiện nay. Khi năng lượng tái tạo được đánh giá là không ổn định, điện khí sẽ nổi lên là một giải pháp khắc phục vì tính linh hoạt của dạng năng lượng này.


Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của điện khí tại Việt Nam là việc nguồn cung và giá khí hoá lỏng LNG hoàn toàn phụ thuộc vào nhập khẩu. Theo ước tính, Việt Nam cần nhập khẩu 14-18 tỷ mét khối LNG vào năm 2030 và 13-16 tỷ mét khối vào năm 2045 để đáp ứng sản xuất đủ 23,9 GW điện từ LNG vào năm 2030 và 31,4 GW vào năm 2045, theo Dự thảo Quy hoạch Điện VIII hiện nay.

Giá nhiên liệu nhập khẩu dao động mạnh do tác động từ các biến động địa chính trị cũng khiến giải pháp an ninh năng lượng này giảm bớt tính bền vững. Giá của loại nhiên liệu này đã tăng lên gấp 3 lần từ 8,21 USD vào tháng 1/2021 lên 24,71 USD vào tháng 1/2022, thậm chí có thể tăng lên 50 USD/1 triệu BTU do ảnh hưởng của xung đột Nga – Ukraina.

Nguồn LNG của Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu (Ảnh: CNG Việt Nam)

Vì vậy, báo cáo nêu rõ việc khai thác, tăng sản lượng khí trong nước của Việt Nam được đánh giá là rất cần thiết và sẽ đảm bảo được sự đa dạng các nguồn nhiên liệu sơ cấp cho phát điện. Việt Nam cần thúc đẩy đầu tư các dự án mỏ khí lớn mới phát hiện để tiến tới khai thác và tận dụng nguồn khí tiềm năng để đảm bảo an ninh năng lượng của quốc gia.

Những đặc thù trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí tiềm ẩn nhiều rủi ro, đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng cho ngành khí cũng cần được đầu tư với các cơ sở sản xuất thượng nguồn, đường ống, cơ sở xử lý khí. Vì vậy, chính phủ cần có một cơ chế phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà nước ngoài tham gia phát triển các dự án dầu khí trong tương lai.

Bên cạnh đó, nhóm chuyên gia cũng đóng góp một số ý kiến vào Dự thảo Luật Dầu khí mới nhất. Khi được thông qua, Luật Dầu khí mới được kỳ vọng sẽ tạo cơ hội và thúc đẩy cho quá trình đầu tư, tìm kiếm, phát hiện, thăm dò và khai thác các mỏ dầu, khí mới diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.


Thứ nhất , Luật Dầu khí mới chỉ quy định các hoạt động ở khâu thượng nguồn, mà không quy định các hoạt động trung và hạ nguồn. Việc này sẽ gây ra hiện tượng xung đột, chồng chéo trong quá trình quản lý chuỗi giá trị dầu khí. Do đó cần đưa vào Dự thảo các quy định liên quan đến hoạt động dầu khí ở khâu trung và hạ nguồn.


Thứ hai, việc đẩy mạnh ưu đãi thuế không chắc đã giúp cải thiện thu hút đầu tư vào các dự án dầu khí. Dự thảo Luật Dầu khí sửa đổi đang đề xuất đối với các dự án đặc biệt ưu đãi, nhà đầu tư có thể được áp dụng mức giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 25% đến tối đa 50%.

Tuy nhiên, các nước thành viên ASEAN khác cũng áp dụng ưu đãi tương tự trong vòng 10 năm qua, khiến việc giảm thuế suất của Việt Nam được cho là không còn hiệu quả. Các số liệu cho thấy mức thuế suất trung bình của ASEAN đã giảm từ 25,1% vào năm 2010 xuống còn 21,7% vào năm 2020.


Thứ ba, chưa có quy định pháp luật về các cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước Việt Nam với các nhà đầu tư quốc tế. Trong khi đó, phương thức giải quyết các tranh chấp liên quan đến các hợp đồng dầu khí chủ yếu thông qua cơ chế trọng tài quốc tế và các cam kết trong Hiệp định bảo hộ đầu tư (IPA) giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với Việt Nam. Điều này sẽ khiến cho việc giải quyết tranh chấp kéo dài, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước.


Thứ tư, chưa có các hướng dẫn cụ thể cho việc điều tra, thăm dò và khai thác các loại dầu khí phi truyền thống. Các loại dầu khí phi truyền thống có đặc điểm về việc phân bố, đặc tính hóa học tương đối khác biệt so với dầu khí truyền thống nên các phương pháp để điều tra, thăm dò và khai thác cũng khác biệt, đòi hỏi cần có quy định và hướng dẫn cụ thể.

Các quy định này cần được nghiên cứu và cân nhắc bổ sung trong Luật sửa đổi sắp tới hoặc trong các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Dầu khí sửa đổi.


Nam Trần

Chia sẻ Facebook