“Lễ hội”, hay những nhập nhằng khái niệm “Lễ” và “Hội”?

Chia sẻ Facebook
30/01/2023 02:12:39

Dư luận phản ánh, lễ hội bây giờ phần nhiều là kệch cỡm, lộn xộn, tốn kém, vô bổ - chưa kể đến sự kích động bạo lực và bản năng tranh đoạt man rợ - nó phản ánh một tình trạng xã hội chưa phải đã giàu có về kinh tế nhưng rõ ràng là rất thừa thời gian, rất thiếu niềm tin và rất mỏng nhận thức.


Nhiều năm trở lại đây, trừ mấy năm đại dịch Covid vừa rồi, cứ mỗi độ ra Tết để vào giêng hai ngày rộng tháng dài, là một lần báo chí và dư luận xã hội nói chung lại sôi lên câu chuyện lễ hội.

Người ta nói, nhiều lắm, bằng giọng than thở buồn phiền cũng có, bằng cả tiếng chỉ trích phẫn nộ cũng có. Rằng nhiều lễ hội ngày càng bị biến tướng, ngày càng trở nên méo mó đến mức không còn đâu là tinh thần cốt lõi như nó đã từng. Rằng lễ hội bây giờ bày ra chỉ để khoe khoang phô phang, một cơ hội để kinh doanh kiếm lời, chứ không phải là một lần làm sống lại những giá trị xưa cũ tốt đẹp. Rằng bây giờ, rất đông, từ người tổ chức lễ hội đến người tham gia lễ hội, đều thiếu hiểu biết, thiếu ý thức xây dựng cần thiết để lễ hội thực sự là một hoạt động bảo lưu và phát huy văn hóa cổ truyền.

Dĩ nhiên là tôi đang nói tới lễ hội truyền thống (chứ không phải loại lễ hội xuất hiện mới đây) và là lễ hội của dân gian (chứ không phải loại lễ hội do Nhà nước hoặc các chính quyền địa phương chế định, tổ chức). Lễ hội truyền thống dân gian Việt Nam, như ta biết, đa phần là lễ hội làng và thường diễn ra tại không gian trung tâm/ không gian thiêng của làng, tức cái đình. (Tuy nhiên cũng có khá nhiều lễ hội lại diễn ra tại những không gian khác, như chùa, miếu, đền, phủ… dù thế nào thì đó cũng là những không gian ít nhiều mang tính chất tín ngưỡng, tâm linh).

Về thời gian, lễ hội truyền thống dân gian thường được tổ chức vào mùa xuân, đúng khoảng nông nhàn của những người lấy việc bán mặt cho đất bán lưng cho giời để làm ra hạt lúa củ khoai. Những dấu chỉ về không gian và thời gian như thế cho thấy, lễ hội không phải một loại hoạt động có tính chất bình thường, hàng ngày. Nó không nằm trong tọa độ không gian/ thời gian được lấp đầy bằng các công việc lao động sản xuất hay sinh hoạt. Nó thuộc về một không gian/ thời gian khác: không gian/ thời gian của lễ và hội. “Lễ” và “Hội”. “Lễ” hoặc “Hội”.


Chính xác là người ngày xưa đã dùng, tùy từng trường hợp cụ thể, chỉ một trong hai từ này mà thôi, để gọi tên các hoạt động mà người ngày nay đang có thói quen gộp chung (một cách khá hồ đồ, không rõ tại sao?) bằng cái từ ghép “Lễ hội”. Người xưa nói “lễ khai ấn Đền Trần”, “hội Phủ Dày”, “lễ đâm/ tế trâu”, “ hội Lim ”, “lễ tịch điền”, “hội Chùa Hương”, “lễ giỗ (quốc) tổ Đền Hùng”, “hội làng Tứ Xã” v.v… Hoặc là “Lễ” hoặc là “Hội”. Rõ ràng, rành mạch, chứ không “Lễ hội” theo kiểu tùy tiện và đầy tinh thần nhập nhằng như bây giờ.

Ảnh minh họa.

Không có ý hậu cổ bạc kim, song theo quan điểm của tôi, người xưa mới là “bên có lý” trong câu chuyện này. Vấn đề không chỉ là phải “gọi sự vật bằng đúng tên của nó” (như F. Engels từng nhấn mạnh), mà điều quan trọng ở chỗ là bằng cách gọi tên ấy – “Lễ” hoặc “Hội” – người xưa đã xác định và thông báo cho ta biết cái gì mới là phần trọng tâm, là nội dung chủ yếu trong cấu trúc tổng thể của hoạt động đang diễn ra kia, “lễ” hay “hội”?

Hãy trở lại với mô hình “chuẩn” của lễ hội truyền thống dân gian – tôi dùng từ “Lễ hội” ở đây như một cách định danh đối tượng về mặt loại hình học chứ không nhằm gọi tên một hoạt động cụ thể nào đó – ta sẽ thấy có hai phần theo thứ tự trước sau: phần Lễ và phần Hội.

Lễ, tạm hiểu là một tập hợp các nghi thức cúng tế hay mô phỏng nhằm tôn vinh công đức hoặc tính chất khác phàm của vị thần chủ tể. (Thần ở đây có thể là nhiên thần, có thể là những anh hùng đánh ngoại xâm, những người có công xây dựng làng nước, những người có đóng góp vào sáng tạo văn hóa, cũng có thể là những người rất bình thường, thậm chí là tầm thường, nhưng lại chết bất đắc kỳ tử vào một ngày giờ được coi là thiêng).

Tiếp sau Lễ là Hội, một tập hợp của các trò chơi dân gian, các cuộc thi đấu khoe tài, các màn biểu diễn văn nghệ đầy màu sắc sinh động. Nếu có thể xếp Lễ vào phạm trù cái trang nghiêm, biểu hiện cho lòng thành kính của con người trước thần thánh, thì Hội chính là phần thuộc về phạm trù cái xuồng xã, biểu hiện cho sức sống và tinh thần vui sống, ham sống của con người giữa cuộc đời trần tục.

Trên thực tế của lễ hội truyền thống dân gian Việt Nam, hai phần Lễ và Hội thường không cân phân, cho dẫu giữa chúng luôn tồn tại những liên hệ không thể tách rời.

Chỉ ở một số ít lễ hội nhấn mạnh phần Lễ, còn đại đa số nhấn mạnh vào phần Hội – gọi lễ hội nào đấy là “Lễ” hay “Hội” hoàn toàn phụ thuộc vào sự nhấn mạnh này – và nhìn từ góc độ tâm lý của người tham gia lễ hội, có thể nói rằng họ thường mong cho chóng qua phần Lễ để nhập cuộc phần Hội, để được vui chơi, được phóng xả và qua đó được tái tạo năng lượng cho cuộc sống tiếp theo.

Ảnh minh họa

Làm cho rõ sự khác biệt này không hề là chuyện duy danh định nghĩa vô ích, nhất là trong bối cảnh đời sống xã hội hiện nay, khi rất nhiều lễ hội truyền thống dân gian được khôi phục sau một quãng thời gian dài tưởng như đã bị lãng quên.

Theo tôi, chính vì nhồi nhét tất cả lễ hội truyền thống dân gian vào một rọ gọi là “Lễ hội” và không cần nhận thức cho đúng nó là “Lễ” hay là “Hội” mà các nhà quản lý văn hóa mới lúng túng như gà mắc tóc, còn dư luận xã hội mới chia năm xẻ bảy để nhiều phen chát chúa với nhau và với lễ hội (nói chung) theo một cách chưa hẳn đã thỏa đáng.

Nếu nó là “Lễ” – trong khuôn khổ có hạn của một bài báo, tôi sẽ chỉ đề cập trường hợp “Lễ”, còn “Hội” xin để giành khi khác - nên khôi phục toàn bộ phần nghi thức cúng tế tôn vinh và phần mô phỏng/ nhắc lại những sự tích, những hành trạng của vị thần chủ tể, không thêm vào hay bớt đi, cũng không được làm méo mó sai lạc ý nghĩa ban đầu của Lễ.

Lễ khai ấn Đền Trần bị dư luận lên án dữ dội – và là lên án đúng – chính bởi những người tổ chức đã phạm vào cấm kỵ này. Xưa, người ta khai ấn, phát ấn Đền Trần là để hướng tới những nội dung nhân văn tốt đẹp. Nay, người ta đẻ ra việc cướp ấn rồi bán ấn Đền Trần, là cốt để kiếm lợi từ lòng tham và sự mê muội vào cái hào quang công danh của đám người dự lễ đang lúc nhúc dẫm đạp nhau kia. Việc bán ấn, cướp ấn cần phải xóa bỏ.


Thế nhưng, với một số Lễ khác, như Lễ tế trâu đền Đông Cuông (Yên Bái) hay Lễ chém lợn làng Ném Thượng ( Bắc Ninh ) thì sao? Câu chuyện khá rắc rối khi những người phản đối nghi thức “đâm, chém” đã sử dụng các tiêu chuẩn của xã hội văn minh hiện đại làm vũ khí.

Họ cho rằng những đâm những chém các con vật là hủ tục, là hành động dã man, là sự kích động bạo lực và có thể làm dậy lên máu cuồng sát đối với những người dự lễ.

Họ yêu cầu phải giảm thiểu nghi thức bằng cách làm sao đó cho con vật hiến sinh được… chết nhẹ nhàng hơn, hoặc giả nếu vẫn muốn đâm muốn chém thì hãy thực hiện việc ấy ở những nơi khuất con mắt bàn dân thiên hạ để tránh những tác động thị giác tiêu cực.

Theo tôi, ở đây ta chỉ có một trong hai lựa chọn: a) Nếu những nghi thức “đâm, chém” con vật hiến sinh trong các Lễ ấy là sự vi phạm các nguyên tắc luật pháp và đạo đức của xã hội hiện đại, cần phải khai tử chính bản thân Lễ. Và b) Nếu còn có thể giữ lại Lễ, hãy giữ lại trong tính toàn vẹn của nó.

Bởi các nghi thức “đâm, chém” ấy, mặc cho ấn tượng hình ảnh gây sốc mà nó tạo ra đối với người quan sát, chính là những tượng trưng có nối kết sâu xa và bền chặt với niềm tin, với sự kính ngưỡng của con người trước thần thánh, cái nhờ đó mà hoạt động Lễ hình thành.

Giả sử, thay vì “đâm, chém”, người ta dí điện hoặc dìm nước con vật; thay vì hóa kiếp chúng trước sân đình, người ta giết chúng ở phía sau đình, thì không gì khác, ấy chính là lúc mà Lễ đã bị xuyên tạc! (Hẳn chúng ta còn chưa quên lời than của đức Khổng Tử khi có kẻ đề nghị ngài bớt con dê ra khỏi lễ tế: ngươi tiếc con dê của ngươi, còn ta thì tiếc Lễ của ta).

Vả lại, đây là quan điểm của riêng tôi, hình như những người phản đối “đâm, chém” đã, vô tình hoặc cố ý, quên không hỏi xem những cộng đồng cư dân chủ thể của Lễ có “đâm, chém” kia nghĩ gì, có thấy nghi thức “đâm, chém” nọ là dã man và mang hiệu ứng kích động bạo lực hay không? Sự “quên” ấy, phải chăng có thể gọi là thói áp đặt văn hóa, là cái tinh thần “dĩ ngã vi trung” rất đáng ghét?

Thêm nữa, liệu có ai dám đoan quyết rằng con người rồi sẽ hiền hòa hơn, sẽ đối xử với nhau tử tế hơn, xã hội rồi sẽ bớt bạo lực hơn nếu cái nghi thức “đâm, chém” mỗi năm chỉ diễn ra một lần kia được/ bị triệt tiêu trong Lễ?

Bắt một nghi thức tế lễ vốn có từ lâu đời phải chịu trách nhiệm về những cái tệ lậu của đời sống hiện tại, xem ra sẽ chẳng vấn đề nào được giải quyết cả: Lễ thì bị mất hoặc bị xuyên tạc, còn bạo lực xã hội ắt vẫn cứ tồn tại sờ sờ ra đấy.

Trong một bối cảnh như thế, việc chính quyền các địa phương can thiệp vào lễ hội truyền thống dân gian bằng các quy định hành chính, xem ra, là do không chịu được sức ép của dư luận xã hội, đặc biệt là thứ dư luận ầm ào của… cộng đồng Facebook.


Và vì thế, thật oái oăm, câu hỏi của Facebooker, nhà thơ, dịch giả Hồng Thanh Quang: “ Lễ hội được làm ra để người ta tham dự, hay lễ hội được làm ra để người ta đứng ngoài nhìn vào rồi bình phẩm? ”, là một câu hỏi tưởng như bâng quơ nhưng rất đáng để người quan tâm thực sự đến lễ hội truyền thống dân gian phải dừng lại, suy ngẫm.


*Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

Chia sẻ Facebook