Kỷ nguyên “Đại lạm phát” cách đây hơn 500 năm để lại bài học gì?

Chia sẻ Facebook
03/01/2023 20:41:04

Trong thời đại của vua Henry VIII, nước Anh dường như bị chia rẽ sâu sắc, với người ăn xin nhiều kỷ lục và một số sẵn sàng cắt cổ người khác tìm miếng ăn.

Kỷ nguyên “Đại lạm phát” cách đây hơn 500 năm để lại bài học gì?

Tại thời điểm đó, ai cũng hoài nghi đồng tiền đúc của Anh bị hạ thấp chất lượng và đạo đức cũng suy đồi. Tình trạng này lan rộng khắp châu Âu trong những năm 1590, với khủng hoảng tài chính, bất ổn xã hội và chiến tranh tàn phá. Nguyên nhân cốt lõi của tình trạng hỗn loạn này là do lạm phát gia tăng một cách bất ngờ và lạ lẫm.

Nguồn: The Economist

Ở Anh vào năm 1500, giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn (chủ yếu là thực phẩm, cùng những thứ khác như quần áo và đèn) không cao hơn so với năm 1275, theo nhà sử học Gregory Clark và các nhà nghiên cứu tại NHTW Anh.

Tuy nhiên, tất cả đã thay đổi sau năm 1500. Lạm phát kéo dài, từng là điều không tưởng, đã không thể ngăn chặn. Trong vòng 50 năm, giá cả trung bình trên khắp nước Anh tăng gấp đôi. Theo nghiên cứu của Paul Schmelzing thuộc Đại học Boston, trước đó giá cả ở Italy đã tăng 5%/năm.

Ở Pháp và Hà Lan, lạm phát đạt 4% vào cuối thế kỷ. Ở Nga, xu hướng lạm phát đã tăng từ những năm 1530. Tỷ lệ lạm phát toàn cầu đạt đỉnh vào những năm 1590 ở gần mức 3%/năm. Nếu thấy 3% là một con số quá thấp, thì bạn phải hiểu rằng vào thời đó, tăng trưởng thu nhập danh nghĩa về cơ bản là bằng 0. Do đó, hầu như mọi mức độ lạm phát đều khiến người dân nghèo hơn.

Lạm phát tăng trong thời gian dài, thậm chí còn lâu hơn cả thời kỳ lạm phát phi mã vào đầu thế kỷ 19 xuất phát từ các cuộc chiến tranh của Napoléon hoặc những năm 1970. Một số quốc gia bị thiệt hại nhiều hơn những nước khác, chẳng hạn lạm phát ở Scotland tệ hơn nhiều so với Anh. Và lạm phát của Hà Lan có thể đã là tệ nhất thế giới.

Cũng giống như lạm phát ngày nay, các chuyên gia vào những năm 1500 tỏ ra bất đồng gay gắt về lý do gây ra lạm phát. Nếu nói về các cuộc tranh luận về lạm phát, có lẽ không nơi nào sôi nổi hơn ở Pháp những năm 1560 và 1570. Một chuyên gia thời đó là Jean Cherruyer de Malestroit (có quan điểm tương tự với Larry Summers) cho rằng áp lực giá cả xuất phát từ việc chi tiêu quá mức. Trong khi đó, một chuyên gia khác là Jean Bodin (có quan điểm tương tự với Paul Krugman) lập luận rằng nguyên nhân từ những cú sốc bất ngờ với hệ thống kinh tế toàn cầu. Cả hai nhà kinh tế này đều đưa ra các lập luận để phản bác quan điểm của người còn lại.

Giống như hai chuyên gia kinh tế Summers và Krugman ngày nay, cả Malestroit và Bodin đều có lý về nguồn gốc của lạm phát. Nhu cầu dư thừa chắc chắn đóng một vai trò. Dân số tăng nhanh sau "Cái chết đen" (một đại dịch xảy ra ở châu Á và châu Âu trong thế kỷ XIV) và nhiều người trong số đó đã di cư đến các thành phố. Điều này làm tăng nhu cầu về lương thực, nhưng cũng làm giảm số lượng nông dân sản xuất. Ngoài ra, một số vị vua đã thúc đẩy nền kinh tế bằng cách thao túng tiền tệ.

Vào những năm 1540, vua Henry VIII đã triển khai một chính sách có tên "Great Debasemen". Theo đó, ông cho nấu chảy các đồng tiền vàng, pha trộn với các kim loại kém giá trị hơn để có được nhiều đồng tiền vàng hơn. Tuy nhiên, điều này cũng làm giảm giá trị của các đồng tiền này.

Sử dụng phương pháp trên, vua Henry VIII đã có thêm một lượng tiền trị giá khoảng 2% GDP trong một số năm. Ông sử dụng phần tiền bổ sung cho các cuộc chiến tranh và cung điện. Tuy nhiên, lượng tiền dồi dào hơn cũng làm tăng nhu cầu danh nghĩa và thôi thúc các thương gia tăng giá.

Không chỉ Henry, những vị vua kế nhiệm cũng làm theo cách này. Scotland bắt đầu đúc lại tiền vào năm 1538 và đẩy mạnh chiến lược này vào năm 1560. Ở vùng đất thấp phía nam mà ngày nay là Hà Lan, Bỉ và Luxembourg, đồng tiền đã bị phá giá tiền tệ 12 lần từ năm 1521 đến năm 1644.

Nhưng chỉ riêng động thái này không giải thích được tình trạng lạm phát lớn, dù Malestroit có lập luận thế nào đi nữa. Pháp từng làm điều này tới 123 lần từ 1285 đến 1490 nhưng không có lạm phát giai đoạn đó.

Tuy nhiên, vào những năm 1500, ngay cả khi nhiều quốc gia giảm tốc độ phá giá tiền, tất cả đều chứng kiến lạm phát. Tây Ban Nha đã ngừng hoàn toàn việc giảm chất lượng tiền từ năm 1497 đến năm 1686. Do đó, một số nhà sử học cho rằng nguyên nhân từ phía nhu cầu là không đủ. Vì vậy, cần xem xét những gì đang xảy ra trên khắp Đại Tây Dương, nguồn gốc gây ra cú sốc nguồn cung với kinh tế châu Âu.

Vào khoảng năm 1545, người dân đã phát hiện ra những mỏ bạc khổng lồ ở Bolivia. Potosí, trung tâm của ngành công nghiệp mới béo bở này, trở thành thành phố lớn thứ 5 về dân số trong thế giới Cơ đốc giáo (sau London, Naples, Paris và Venice).

Trong quý đầu tiên của những năm 1500, chỉ có 10 tấn bạc cập bến bờ biển châu Âu và tăng dần lên 173 tấn giai đoạn cuối thế kỷ đó. Tây Ban Nha là nơi phần lớn kim loại được chuyển đến. Ban đầu Tây Ban Nha chứng kiến lạm phát đặc biệt cao, nhưng sau đó lạm phát lan rộng khắp phần còn lại của châu Âu và đến tận nước Nga.

Đà tăng lạm phát ngày nay dù chỉ mới kéo dài một năm nhưng gây ra những hậu quả chính trị và xã hội sâu sắc. Ở vài nơi trên thế giới, niềm tin của người tiêu dùng đang ở mức thấp khi tiền lương thực (real wages) giảm. Các chính trị gia đương nhiệm không được tín nhiệm. Các cuộc biểu tình về chi phí sinh hoạt đang nổ ra.

Tuy nhiên, tất cả vẫn chưa là gì so với tác động của lạm phát thế kỷ 16. Tiền lương thực tế trung bình vào đầu những năm 1500 ở mức cao nhất khoảng 7 xu một tuần, sau đó giảm liên hồi. Sức mua không hồi phục cho đến cuối thế kỷ 19. Tác động của lạm phát đã siết chặt mức sống của người dân và dẫn tới tình trạng ăn xin tràn lan, xã hội và chính trị trên khắp châu Âu trở nên bất ổn.

Trong một bài nghiên cứu xuất bản năm 1986, chuyên gia xã hội học Jack Goldstone đã đã nghiên cứu nguyên nhân dẫn tới "tình trạng các quốc gia hỗn loạn trên diện rộng" từ năm 1550 đến năm 1650.

Ở Pháp, vào năm 1572, vụ thảm sát Ngày Thánh Bartholomew dẫn đến hàng ngàn người chết. Những năm 1590 là giai đoạn nổi dậy ở Áo, Phần Lan, Hungary và Ukraine. Từ 1598, Nga bước vào "Thời kì Đại loạn" với khoảng 15 năm vô luật pháp.

"Chiến tranh Ba Mươi Năm" bắt đầu vào 1618 và lên đến đỉnh điểm với việc vua Charles I của Anh bị hành quyết vào năm 1649. Vào mỗi năm của khoảng 25 năm đầu thế kỷ 16, cứ 100,000 người trên toàn cầu thì có khoảng 6 người chết trong các cuộc xung đột. Từ những năm 1620 đến những năm 1640, cứ 100,000 người thì có khoảng 60 người chết hàng năm.

Giới tinh hoa cũng bị thiệt hại. Tầng lớp quý tộc thường phụ thuộc vào các khoản thu cố định (chẳng hạn như cho thuê nhà) và vì vậy bị tác động bởi giai đoạn “đại lạm phát” nhiều hơn so với những người có thể nâng giá bán hàng hóa.

Ở miền bắc nước Pháp và Bỉ, bất bình đẳng đã giảm vào những năm 1560 và 1570 khi những người có thu nhập trung bình làm ăn tốt trong khi các địa chủ giàu có thu nhập giảm. Các nhà tài phiệt vốn không quen với xung đột kinh tế nên kích động sự thay đổi.

Quan trọng hơn là các Chính phủ cũng chịu nhiều tác động. Nhiều thế kỷ lạm phát bằng 0 hoặc thấp đã ảnh hưởng đến cách họ cấu trúc tài chính Nhà nước. Các vị vua thường cho thuê đất với giá thuê cố định trong thời gian 99 năm. Thuế hải quan được giữ ở mức giá danh nghĩa. Đây là vấn đề lớn khi lạm phát vụt tăng.

Từ giữa những năm 1570 đến giữa những năm 1590, nguồn thu thuế của Tây Ban Nha không đổi về lượng tiền mặt, nhưng sức mua kém hơn nhiều. Trong khi đó, chi phí của Chính phủ lại tăng vọt. Vào thế kỷ sau năm 1530, chi phí đưa một người lính ra chiến trường tăng gấp 5 lần trước đó.

Do đó theo thời gian, lạm phát góp phần khiến các quốc gia yếu hơn và rơi vào khủng hoảng nợ. Các Chính phủ ra sức làm những gì có thể để tăng nguồn thu. Trong năm 1544 và 1545, Henry VIII bán bớt tài sản của Nhà nước, chẳng hạn các mảnh đất, trị giá hơn 150,000 bảng Anh (hoặc hơn 2% GDP). Đầu những năm 1600, những vụ mua bán nhỏ hơn dưới thời Elizabeth I vẫn diễn ra.

Theo ông Goldstone, việc phong tước hiệp sĩ "với số lượng chưa từng có" cũng cũng mang lại khoản chi phí lớn. Ngoài ra, hoạt động cho vay bùng nổ vào đúng thời điểm nhiều bên cho vay bắt đầu tăng lãi suất. Các đợt vỡ nợ hiếm khi xảy ra vào những năm 1300 và 1400, nhưng sau đó đã tăng lên gấp bội với Pháp (năm 1558, 1624 và 1648), Bồ Đào Nha (năm 1560) và Tây Ban Nha (năm 1557, 1575, 1596, 1607, 1627 và 1647).

Cuối cùng, đại lạm phát cũng tới hồi kết thúc. Tăng trưởng dân số chậm lại, làm giảm nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ. Các chính quyền ra sức kiểm soát chính sách tài chính và tiền tệ, đồng thời cam kết sẽ ít để vỡ nợ và phá giá tiền tệ hơn. Dòng kim loại quý từ châu Mỹ cũng dần chậm lại. Tuy nhiên, kỷ nguyên "Đại Lạm phát" cũng để lại nhiều bài học cho ngày nay. Cho dù nguyên nhân là gì, các xã hội để xảy ra lạm phát thì sẽ bóp nghẹt mức sống của người dân.

Vũ Hạo (Theo Economist)

Chia sẻ Facebook