Kiến nghị "gỡ khó" về hoàn thuế VAT cho doanh nghiệp gỗ
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cơ quan thuế cần có những đánh giá kỹ lưỡng hơn trong việc phân loại, áp dụng rủi ro đối với các sản phẩm gỗ.
Ngày 5/12, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có Công văn số 8187/BNN-TCLN gửi Bộ Tài chính về việc tháo gỡ khó khăn trong việc hoàn thuế giá trị gia tăng (thuế VAT) cho doanh nghiệp ngành chế biến, xuất khẩu gỗ và lâm sản.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong những năm qua, gỗ khai thác từ rừng trồng trong nước là nguồn cung chủ yếu và quan trọng, đáp ứng khoảng 75% nhu cầu nguyên liệu, giúp cho ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ của Việt Nam liên tục tăng trưởng.
Năm 2021, giá trị xuất khẩu nhóm ngành hàng này đạt 16,3 tỷ USD, tăng 19,8% so với năm 2020. Qua đó đã góp phần cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho người dân nghèo sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, nơi có điều kiện khó khăn, đồng thời góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Theo quy định tại các Điều 15, 16 và 20 Thông tư số 27/2018/TT-BNNPTNT ngày 16/11/2018 của Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về quản lý, truy xuất nguồn gốc lâm sản thì gỗ có nguồn gốc từ cây phân tán, vườn, rừng trồng trong nước đã đảm bảo về nguồn gốc hợp pháp, người dân tự quyết định việc khai thác, tự lập bảng kê lâm sản, tự do lưu thông và không phải xác nhận về nguồn gốc của cơ quan quản lý nhà nước.
“Như vậy, việc xác minh nguồn gốc gỗ khai thác trong nước theo phương pháp kiểm tra, xác minh thông qua UBND cấp xã và các cơ quan liên quan của cơ quan thuế là chưa phù hợp”, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nêu rõ.
Ngoài ra, theo văn bản số 2124/CT-TTKT ngày 22/5/2020 của Tổng cục Thuế xác định các doanh nghiệp và ngành nghề có rủi ro trong việc hoàn thuế VAT; trong đó chỉ đánh giá trên cơ sở các công ty sản xuất và kinh doanh ván dán. Tuy nhiên hiện nay, các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu các sản phẩm đồ mộc nội thất, ngoại thất, dăm gỗ và viên nén đều bị xem xét là có nguy cơ rủi ro cao trong việc hoàn thuế VAT.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng cho rằng, theo quy định tại khoản 2 Điều 73, Điều 75 Luật Quản lý thuế năm 2019: hồ sơ hoàn thuế thuộc loại rủi ro về thuế cao theo phân loại quản lý rủi ro trong quản lý thuế là hồ sơ thuộc diện kiểm tra trước hoàn thuế; thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế chậm nhất là 40 ngày kể từ ngày cơ quan quản lý thuế có thông báo bằng văn bản về việc chấp nhận hồ sơ, cơ quan quản lý thuế phải quyết định hoàn thuế cho người nộp thuế hoặc không hoàn thuế cho người nộp thuế nếu hồ sơ không đủ điều kiện hoàn thuế.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng cho rằng việc các cơ quan thuế tiến hành xác minh nguồn gốc gỗ của các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân và giải quyết hoàn thuế VAT kéo dài nhiều tháng đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp ngành chế biến, xuất khẩu gỗ.
Để giảm bớt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh ảnh hưởng của dịch COVID-19 kéo dài, tình hình kinh tế trong nước và thế giới khó khăn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị Bộ Tài chính xem xét, chỉ đạo các cơ quan hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thực hiện các chính sách liên quan đến thuế VAT.
Trước đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận được văn bản số 107/ HHG-VP ngày 03/11/2022 của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam về việc tháo gỡ khó khăn đối với việc xác nhận nguồn gốc gỗ rừng trồng trong việc hoàn thuế VAT.
Nội dung văn bản kiến nghị những khó khăn, vướng mắc trong việc xác minh nguồn gốc để hoàn thuế VAT đối với mặt hàng gỗ có nguồn gốc từ rừng trồng trong nước theo chỉ đạo của Tổng cục Thuế tại các văn bản: số 429/TCT-TTKT ngày 22/02/2021; số 2124/TCT-TTKT ngày 22/5/2020, số 2928/TCT-TTKT ngày 22/7/2020, số 4569/TCT-TTKT ngày 27/10/2020, từ đó dẫn đến ách tắc trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm đồ gỗ có nguồn gốc từ rừng trồng trong nước.
Trước đó, chia sẻ tại hội nghị “Đối thoại về chính sách và thủ tục hành chính thuế, hải quan năm 2022” ngày 22/11, Ông Thang Văn Thông, Phó Chủ tịch Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam, Phó Chi hội trưởng Chi hội dăm gỗ Việt Nam đánh giá, các thủ tục hành chính của ngành hải quan hiện nay đã tốt lên, không gây nhiều vướng mắc cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nhưng lĩnh vực thuế còn nhiều bất cập liên quan tới hàng hoá xuất khẩu, cũng như hồ sơ thực hiện hoàn thuế cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Đại diện cho các doanh nghiệp ngành gỗ, ông Thông cho biết doanh nghiệp xuất khẩu dăm gỗ vướng mắc rất nhiều thứ. Cụ thể, Tổng cục thuế ra rất nhiều văn bản chỉ đạo trực tiếp cho tất cả chi cục thuế địa phương xác minh nguồn gốc gỗ, đưa gỗ vào ngành có rủi ro cao. Xác minh nguồn gốc gỗ từ người trồng rừng đến khi lô hàng xuất khẩu đi.
Như vậy, quá trình xác minh phải rất dài, khiến thời gian được hoàn thuế của doanh nghiệp lâu hơn. Trong khi vốn doanh nghiệp đọng trong khâu hoàn thuế VAT. Cùng với đó, các khoản phải chi như tiền công nhân, lãi suất ngân hàng, tiền hàng,… hàng ngày doanh nghiệp vẫn phải xoay.
“Quy định kiểm tra trước hoàn sau tối đa 40 ngày, nhưng với quy định này e rằng 1 năm cũng chưa xong. Đây chính là vướng mắc của tất cả các doanh nghiệp trong ngành”, ông Thông cho biết.
Những quy định trên gây khó khăn cho doanh nghiệp. Bởi 1 lô hàng xuất khẩu đi, khi mua nguyên liệu vào doanh nghiệp đã được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ và sau khi lên tàu hàng hoá xuất đi cũng đã được cơ quan hải quan kiểm tra từng lô hàng.
Thậm chí ngành dăm gỗ trong nhiều năm nay vẫn là xuất khẩu cho những đối tác truyền thống… nhưng bộ hồ sơ đó khi mang về hoàn thuế thì Cục thuế địa phương không hoàn cho, lý do từ văn bản của Tổng cục thuế yêu cầu phải xác minh đến nguồn gốc cuối cùng…
“Như vậy, doanh nghiệp càng khó khăn về tài chính, đồng vốn để quay vòng. Nếu cứ giữ nhịp độ này, các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ sẽ không còn vốn để luân chuyển, ảnh hưởng tới các hộ trồng rừng, cũng như các doanh nghiệp nhỏ và vừa bán hàng lại cho doanh nghiệp lớn xuất khẩu đi”, ông Thông nói.
Để tháo gỡ vướng mắc này, ông Thông đề xuất, nếu bộ hồ sơ đầy đủ, đã được giám sát qua hải quan thì nên phân ra để hoàn thuế trước cho doanh nghiệp chứ không nên để chậm trễ, gây ách tắc cho doanh nghiệp.
T.M (tổng hợp)