Gương người xưa: Giữ lễ nghi, khắc chế dục vọng, tránh lầm đường lạc lối
Các bậc hiền nhân cổ đại đã đặt ra lễ để tiết chế dục vọng, nuôi dưỡng bản tính của con người, tránh tổn hại, đón nhận lợi ích. Những việc này đối với ngày này vô cùng trọng yếu, vì hiện tại nhiều người đã không còn biết cách để kiểm soát dục vọng…
Nếu thỏa sức phóng túng dục vọng, thì ắt sẽ nguy hiểm. Chỉ có giữ lễ, kiểm soát dục vọng, coi nhẹ việc hưởng thụ cuộc sống vật chất như ăn mặc, đi lại, cư trú, thì mới tránh lầm đường lạc lối, ít phạm sai lầm, tránh hủy hoại bản thân. Chúng ta cùng xem người xưa tiết chế dục vọng như thế nào.
Tự nhận lỗi, giữ lễ để phòng ngừa loạn
Thời kỳ Tây Chu, Khương Vương hậu của Chu Tuyên Vương là con gái của Tề Hầu, bà là người hiền hậu có đức, phàm việc gì không đúng với lễ là không nói, không làm.
Một ngày nọ, Chu Tuyên Vương ngủ quên không lên triều, Vương hậu bèn tháo các đồ trang sức trên đầu, cởi bỏ quan phục, mặc y phục của tội nhân và quỳ ở ngoài, nhờ Phó mẫu đi nói với Tuyên Vương rằng: “Dâm tâm của thiếp khiến đại vương thất lễ, quân vương háo sắc mà quên đức là khởi đầu của loạn. Loạn này do thiếp mà ra, vậy nên xin đại vương giáng tội thiếp.”
Chu Tuyên Vương là người rất lý trí, nói rằng: “Không phải lỗi của khanh. Đây là lỗi lầm của trẫm, là quả nhân vô đức.” Từ đó, Chu Tuyên Vương chuyên cần chính sự khiến quốc gia hưng thịnh, tạo phúc cho bách tính, sử sách gọi ông là vị quân vương trung hưng nhà Tây Châu.
Khương Hậu biết giữ lễ nhận lỗi, là người uy nghi có đức hạnh, khiến Tuyên Vương hối lỗi tỉnh ngộ. Có câu châm ngôn rằng: Quân vương có hiền phi, thì hậu cung yên định, quốc gia hưng thịnh. Nhà có hiền thê, thì chồng nhân nghĩa con hiếu thuận, gia đình hạnh phúc. Quan có người hầu hiền, thì không mất đạo nghĩa, không quên bổn phận. Người có bạn tốt, thì giảm đi đường vòng, tăng trí tuệ.
Lấy lễ thờ vua, từ chối đi cùng xe
Ban Tiệp dư (Tiệp dư là chức cao nhất của phi tần) thời Tây Hán, không rõ tên gì, là người Lâu Phiền (khu vực Bắc Tây Sơn ngày nay). Bà là con gái của Việt kỵ Hiệu úy Ban Huống, hậu duệ của Tử Văn, quan lệnh doãn nước Sở. Ban Siêu (người ném bút tòng quân), Ban Chiêu – tác giả của Nữ Giới, và nhà sử học Ban Cố – tác giả của Hán Thư đều là hậu duệ đời sau của gia tộc Ban Tiệp dư.
Ban Tiệp dư xinh đẹp, hiểu lễ, hiền đức, được Thành Đế rất sủng ái. Một lần, Thành Đế ngồi xe rồng hào hoa, mời Ban Tiệp dư cùng ngồi du ngoạn. Nhưng Ban Tiệp dư lại khuyên Thành Đế rằng: “Các bậc quân vương Thánh hiền trong lịch sử đều có danh thần ở bên, nếu thần thiếp ngồi cùng xe với bệ hạ đi du ngoạn, như thế có phải giống với hành vi của 3 vị quân vương cuối cùng của 3 triều Hạ, Thương, Chu là Hạ Kiệt, Thương Trụ và Chu U Vương hay sao. Thần thiếp không thể làm cái việc háo sắc, trái lễ cuồng vọng, quên đức này, nên lấy điều này để răn mình.”
Hán Thành Đế thấy Ban Tiệp dư nói có đạo lý bèn rời đi. Hoàng Thái hậu sau khi biết việc thì hết lời khen ngợi Ban Tiệp dư rằng: “Xưa có Phàn Cơ, nay có Ban Tiệp dư” . Phàn Cơ là phi tử của Sở Trang Vương, khi Phàn Cơ thấy Sở Trang Vương mê đắm tửu sắc, ham thích săn bắn, bà liền không ăn đồ săn bắn, ngẩng mặt nhìn trăng chải đầu can gián Sở Trang Vương, giúp Sở Trang Vương trở thành một trong Xuân Thu Ngũ Bá.
Ban Tiệp dư dùng lễ khắc chế ham dục, tu thân thanh khiết, hành xử giữ lễ, nhưng Hán Thành Đế lại phóng túng dục vọng nên đã hủy hoại bản thân. Ông đắm say chị em Triệu Phi Yến, cuối cùng mất mạng, không có người kế thừa ngôi vị.
Tranh vẽ các thiếu nữ Trung Quốc thời phong kiến. (Ảnh qua Caixin)
Ngàn vàng, tước vị không có được một cái nhìn của mỹ nhân
Vào thời kỳ Xuân Thu, nước Trịnh có một vị thiếp tống giá tên là Trịnh Mậu theo phu nhân gả đến nước Sở. Một ngày nọ, Sở Thành Vương lên đài cao ngắm nhìn hậu cung, các cung nữ, phi tần hậu cung đều tranh nhau ngửa mặt ngóng trông Sở Thành Vương, hy vọng được ông để ý đến. Duy chỉ có Trịnh Mậu là vẫn thong thả tiến bước, không nhìn Sở Thành Vương.
Sở Thành Vương thấy Trịnh Mậu khác với mọi người, cảm thất vô cùng ngạc nhiên nên lớn tiếng gọi: “Mỹ nhân đang đi bộ kia ơi, xin nàng hãy nhìn ta một cái”. Trịnh Mậu không ngẩng đầu. Thành Vương nói: “Mỹ nhân, nàng nhìn ta một cái, ta sẽ phong nàng làm phu nhân”.
Trịnh Mậu vẫn không ngẩng đầu nhìn vua. Thành Vương lại nói: “Mỹ nhân, nếu nàng nhìn ta một cái, ta sẽ phong quan tước cho phụ thân và huynh đệ của nàng và ban cho nàng 1.000 lượng vàng”. Nhưng Trịnh Mậu vẫn thong dong bước đi trên đường, vẫn không ngẩng đầu nhìn một cái.
Thành Vương cảm thấy vị mỹ nhân này hoàn toàn khác biệt với mọi người, thế là tự mình xuống lầu hỏi nàng: “Phong tước có thể được quan cao, bổng lộc, còn chức vị Phu nhân là ngôi vị cao trong hậu cung, chỉ cần nàng nhìn ta một cái, thì nàng có thể có được tất cả những cái đó, tại sao lại không làm?”
Trịnh Mậu từ tốn đáp: “Thần thiếp nghe nói, phụ nữ cần phải có dáng vẻ thuận hòa, đoan chính. Hôm nay, đại vương đứng trên đài cao, thần thiếp nhìn thì trái với lễ nghi. Thần thiếp không ngẩng đầu nhìn, đại vương lấy ngôi vị cao phu nhân, hậu lộc, quan tước ra để dụ dỗ thần thiếp. Nếu vì quan tước hay ngôi vị cao mà thần thiếp nhìn đại vương thì đó là tham phú quý lợi ích, mà quên đi đạo lý làm người. Thần thiếp quên lễ nghĩa làm người thì sau này lấy gì để hầu đại vương?”
Trịnh Mậu không màng danh lợi, trái lại, lại được Sở Thành Vương ban thưởng, lập tức phong làm phu nhân.
Lão Tử có viết trong ‘Đạo đức kinh’ rằng: “Tội mạc đại ư đa dục, họa mạc đại ư bất tri túc, cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ”. Tạm dịch: Tội không gì lớn bằng nhiều ham dục, họa không gì lớn bằng không biết đủ, lỗi không gì lớn bằng muốn đắc được. Thế nên biết đủ thì luôn thấy hài lòng.
Theo Minh Huệ Net