Giá nông sản 27/6: Lúa gạo xu hướng đi ngang, cà phê duy trì ổn định

Chia sẻ Facebook
28/06/2024 04:31:41

Giá lúa tiếp tục đi ngang, gạo giảm 100 đồng/kg, hồ tiêu giảm nhẹ, cao su biến động trái chiều, cà phê trong nước duy trì ổn định.


Hồ tiêu giảm nhẹ

Giá tiêu hôm nay 27/6 ở Gia Lai (Chư Sê) giảm 500 đồng/kg xuống còn 46.000 đồng/kg. Trong khi đó, giá tiêu ở Đồng Nai (giá trung bình) vẫn đứng ở mức 46.000 đồng/kg. Như vậy, Gia Lai và Đồng Nai đang là 2 địa phương có giá tiêu thấp nhất.

Tại Bình Phước, giá tiêu (giá bình quân) cũng giảm 500 đồng/kg xuống còn 47.500 đồng/kg.


Tại các vùng trồng trọng điểm khác, giá tiêu hôm nay không đổi so với ngày hôm qua. Cụ thể: giá tiêu hôm nay ở Bà Rịa - Vũng Tàu (giá trung bình) là 49.000 đồng/kg, Đắk Lắk (Ea H’leo) và Đắk Nông (Gia Nghĩa) cùng 47.500 đồng/kg.
Tại sàn Kochi (Ấn Độ), giá tiêu giao ngay giảm 153,3 rupee xuống còn mức 33.013,35 rupee/tạ.

Tỷ giá tính chéo của đồng Việt Nam đối với đồng rupee Ấn Độ (INR) từ ngày 25/6-1/7/2020 được Ngân hàng Nhà nước áp dụng tính thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu là 3046,92 VND/INR.


Cà phê duy trì ổn định


Sau khi giảm trong mấy ngày qua, giá cà phê hôm nay 27/6 gần như không đổi. Cụ thể, giá cà phê hôm nay tại Đắk Lắk là 30.600 đồng/kg, Gia Lai 30.400 đồng/kg, Đắk Nông 30.400 đồng/kg.


Kết thúc phiên giao dịch ngày 26/6, giá cà phê Robusta tại sàn London giảm 1 USD USD xuống 1.153 USD/tấn (kỳ hạn giao tháng 7/2020). Ngược lại, giá cà phê Arabica tại sàn New York tăng 0,85 cent/lb lên 96,65 cent/lb.

Báo cáo của ICO cho thấy xuất khẩu cà phê tháng 4 toàn cầu đạt 12 triệu bao, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 7 tháng đầu niên vụ 2023-2024 (tháng 10 đến tháng 4) đạt gần 81 triệu bao so, tăng 11,1% (tương ứng 8,1 triệu bao) so với cùng kỳ niên vụ 2022 - 2023.

Trong đó, xuất khẩu cà phê nhân xanh arabica Brazil tăng tới 44,9% trong tháng 4 và tăng 21,1% trong 7 tháng đầu niên vụ 2023-2024, đạt tổng cộng 25,2 triệu bao. Xuất khẩu cà phê robusta cũng tăng 13,4% trong tháng 4 và tăng 9% sau 7 tháng đầu niên vụ, đạt 29,1 triệu bao.

Mức tăng trưởng kể trên chủ yếu đến từ Brazil, khi nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới đã vận chuyển 3,2 triệu bao arabica cùng với 0,7 triệu bao robusta ra thị trường quốc tế trong tháng 4, tăng lần lượt là 44,1% và 448,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tiếp đến, xuất khẩu cà phê Arabica Colombia ghi nhận mức tăng 5,4% trong tháng 4 và tăng 10,6% trong 7 tháng đầu niên vụ hiện tại, đạt 7,1 triệu bao.

Ngược lại, nhóm cà phê Arabica khác giảm 9,1% trong tháng 4 và giảm 0,5% trong 7 tháng đầu niên vụ, xuống còn 11,8 triệu bao. Đã có 15 trong số 29 quốc gia trong nhóm cà phê này chứng kiến xuất khẩu giảm trong tháng vừa qua, đặc biệt là Guatemala, Honduras và Nicaragua, trong khi tăng trưởng được ghi nhận ở Costa Rica, Ethiopia và Peru.


Lúa gạo xu hướng đi ngang

Giá lúa gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục xu hướng đi ngang với lúa. Giá gạo nguyên liệu giảm 100-150 đồng/kg, gạo thành phẩm giảm 100 đồng/kg. Thị trường gạo giao dịch chậm, giá giảm nhẹ.

Ghi nhận tại các kho gạo ở Sa Đéc (Đồng Tháp), nguồn gạo ít, giá ổn định, kho mua cầm chừng. Các địa phương như Hậu Giang, Sóc Trăng hôm nay nguồn gạo về chưa nhiều, giao dịch chậm, nhu cầu từ các kho chưa mạnh.

Theo đó, giá gạo hôm nay giảm nhẹ. Cụ thể giá gạo nguyên liệu IR 504 giảm 100 - 150 đồng/kg ở mức 10.700 - 10.950 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 giảm 100 đồng/kg ở mức 12.800 - 13.000 đồng/kg.

Với mặt hàng lúa, ghi nhận tại các địa phương thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, giao dịch chậm, giá lúa tươi chào bán ít biến động so với ngày hôm qua, thương lái bỏ cọc nhiều do lúa xấu.

Cụ thể, theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, lúa Đài thơm 8 dao động quanh mốc 7.200 - 7.400 đồng/kg; lúa OM 18 ở mức 7.200 - 7.400 đồng/kg; IR 504 ở mức 7.000 - 7.200 đồng/kg; OM 5451 ở mức 6.900 - 7.000 đồng/kg; lúa Nàng Hoa 9 dao động quanh mốc 7.600 - 7.700 đồng/kg; lúa OM 380 ở mức 6.800 - 7.000 đồng/kg.


Cao su biến động trái chiều

Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 1,12% xuống mức 344,3 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h ngày 27/6 (giờ Việt Nam).

Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 0,67% ở mức 14.980 Nhân dân tệ/tấn.

Những tháng đầu năm nay, xuất khẩu cao su của Việt Nam sụt giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, thông tin từ Tổng cục Hải quan cho thấy, 5 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu cao su đạt 572,28 nghìn tấn, giảm 2,4% về lượng so với cùng kỳ 2023.

Lượng cao su xuất khẩu giảm là do nhu cầu nhập khẩu giảm từ một số thị trường lớn, nhất là thị trường Trung Quốc, nước nhập khẩu và tiêu thụ cao su thiên nhiên lớn nhất thế giới. Theo Tổng cục Hải quan Trung Quốc, 4 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu 2,41 triệu tấn cao su , giảm 14,4% về lượng so với cùng kỳ năm 2023. Do Trung Quốc giảm nhập khẩu, nên lượng cao su Việt Nam nhập khẩu vào thị trường này giảm 8,2% và đạt 457,51 nghìn tấn.

Tuy giảm về lượng, nhưng xuất khẩu cao su lại tăng về trị giá khi đạt 859,4 triệu USD trong 5 tháng, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2023. Kim ngạch tăng trong khi lượng xuất khẩu giảm là do giá cao su xuất khẩu tăng đáng kể. Trong 5 tháng đầu năm 2024, giá cao su xuất khẩu bình quân đạt 1.502 USD/tấn, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2023.


KHÁNH LINH (t/h)

Chia sẻ Facebook