Giá nông sản 24/6: Gạo tăng nhẹ, cà phê giảm, hồ tiêu duy trì ổn định

Chia sẻ Facebook
24/06/2024 12:58:43

Gạo tăng nhẹ, hồ tiêu duy trì ổn định, ớt tiếp tục tăng, cà phê thế giới đồng loạt giảm mạnh đầu tuần, với giá Arabica giảm đến 2,32%.


Hồ tiêu ổn định

Ghi nhận mới nhất, giá tiêu không có thay đổi mới so với cuối tuần trước. Cụ thể, tại tỉnh Đắk Lắk, giá tiêu hôm nay được thu mua với mức 160.000 đồng/kg.

Tại tỉnh Đắk Nông, giá tiêu hôm nay được thu mua với mức 161.000 đồng/kg. Tại tỉnh Gia Lai, giá tiêu hôm nay ở mức 157.000 đồng/kg.

Trong khi đó tại Đồng Nai, giá tiêu hôm nay ở mức 157.000 đồng/kg. Tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giá tiêu hôm nay ở mức 158.000 đồng/kg.

Mức giá thu mua thấp nhất hiện vẫn được ghi nhận tại tỉnh Bình Phước là 156.000 đồng/kg.

Giá tiêu đầu giờ sáng nay giữ ổn định so với cùng thời điểm hôm qua. Thị trường đang có chuỗi ngày giữ ổn định. Tổng kết tuần trước, giá tiêu trong nước tăng 1.000 - 3.000 đồng/kg, cao nhất tại các tỉnh Tây Nguyên.

Trên thị trường thế giới thế giới, giá giao dịch tiêu đen Lampung (Indonesia), giá thu mua tiêu đen Brazil ASTA 570 và giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA duy trì ổn định so với ngày 22/6; giá thu mua tiêu trắng Muntok và giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có thay đổi mới.

Theo số liệu từ Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat), Việt Nam tiếp tục là nguồn cung hồ tiêu lớn nhất cho Liên minh châu Âu (EU) trong 4 tháng đầu năm với khối lượng đạt 11.359 tấn, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm 61,5% tổng nhập khẩu mặt hàng này của khu vực.

Nhập khẩu hồ tiêu tại EU đang có dấu hiệu phục hồi trong những tháng đầu năm 2024 sau khi sụt giảm vào năm ngoái.

Số liệu của Eurostat cho thấy, EU đã nhập khẩu 18.474 tấn hồ tiêu từ thị trường ngoại khối trong 4 tháng đầu năm, trị giá 83,7 triệu EUR, tăng 22,9% về lượng và 27% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.

Tính riêng trong tháng 4, lượng hồ tiêu nhập khẩu vào EU đạt mức cao nhất kể từ đầu năm 2023 đến nay, với 5.440 tấn, tăng 22,7% so với tháng trước và tăng gần 40% so với cùng kỳ. Đây cũng là tháng thứ 4 liên tiếp nhập khẩu tiêu của EU tăng so với cùng kỳ năm trước.

Về thị trường cung cấp, EU đã nhập khẩu tổng cộng 11.359 tấn hồ tiêu từ Việt Nam trong 4 tháng đầu năm với trị giá hơn 48,5 triệu EUR, tăng 25,1% về lượng và 32,1% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Với kết quả này, Việt Nam tiếp tục là nguồn cung hồ tiêu cho EU với thị phần chiếm 61,5% tổng khối lượng nhập khẩu mặt hàng này của khu vực.

Nhập khẩu tiêu của EU từ các thị trường khác cũng tăng mạnh so với cùng kỳ năm như: Brazil đạt 3.443 tấn, tăng 25,3%; Indonesia đạt 1.384 tấn, tăng 32,2%; Ấn Độ đạt 952 tấn, tăng 9,9%.

Giá tiêu nhập khẩu bình quân của EU từ Việt Nam đạt 4.273 EUR/tấn, từ Brazil là 3.665 EUR/tấn, Indonesia 5.509 EUR/tấn, riêng Ấn Độ đạt 6.646 USD/tấn.

Ngoài mức giá cạnh tranh, doanh nghiệp xuất khẩu của tiêu của Việt Nam đang có lợi thế hơn một số nước xuất khẩu như Ấn Độ, Malaysia, Indonesia,… nhờ Hiệp định EVFTA, giúp giảm thuế nhập khẩu hồ tiêu xay hoặc nghiền sang EU giảm từ 4% còn 0%.


Giá cao su giảm


Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 1,1% lên mức 340,5 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h ngày 24/6 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 0,1% ở mức 14.835 Nhân dân tệ/tấn.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong tháng 5, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 84.467 tấn, trị giá 134,6 triệu USD, giảm 28% về lượng và 15% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm, xuất khẩu mặt hàng này đạt 572.284 tấn, trị giá 859,4 triệu USD, giảm 2,4% về lượng nhưng vẫn tăng 6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.

Trong đó, Trung Quốc tiếp tục là thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm, chiếm 66,5% tổng khối lượng xuất khẩu, với 380.416 tấn, trị giá 547 triệu USD. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm ngoái xuất khẩu sang thị trường này đã giảm 14% về lượng và giảm 9% về trị giá.

Tính riêng trong tháng 5, lượng cao su xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt 50.516 tấn, giảm 42% so với cùng kỳ và đánh dấu sự sụt giảm trong tháng thứ ba liên tiếp.


Cà phê tiếp đà giảm

Giá cà phê trong nước hôm nay 24/6 giữ mức ổn định, giá trung bình ở khu vực Tây Nguyên là 121.500 đồng/kg.

Cụ thể, giá cà phê Đắk Lắk ngày 24/6 được thu mua ở mốc 121.500 đồng/kg, giảm 1.500 đồng/kg so với ngày hôm trước. Giá cà phê mới nhất ở Đắk Lắk được khảo sát từ các vùng: Buôn Ma Thuột, Buôn Hồ, Cư M'gar, Ea H'leo, Krông Năng, Krông Pắk, Krông Búk và Krông Ana.

Giá cà phê Lâm Đồng ngày 24/6 là 120.500 đồng/kg, giảm 1.500 đồng/kg so với ngày hôm trước. Giá cà phê Lâm Đồng hôm nay được khảo sát từ các vùng: Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà và Đức Trọng.

Giá cà phê Gia Lai, Kon Tum ngày 24/6 là 121.500 đồng/kg, giảm 1.500 đồng/kg so với ngày hôm trước. Giá cà phê mới nhất ở Gia Lai được khảo sát từ các vùng: Đăk Đoa, Ia Grai, Chư Prông, Chư Păh, Mang Yang, Đức Cơ, Kbang, Chư Sê, và Chư Pưh.

Giá cà phê Đắk Nông hôm nay ngày 24/6 là 121.600 đồng/kg, giảm 1.600 đồng/kg so với ngày hôm trước. Giá cà phê mới nhất ở Đắk Nông được khảo sát từ các vùng: Đắk Mil, Đắk Song, Krông Nô.

Theo ghi nhận mới nhất, giá cà phê trên thị trường thế giới tiếp đà giảm. Cụ thể, giá cà phê trực tuyến Robusta tại London giao tháng 9/2024 được ghi nhận tại mức 4.104 USD/tấn, giảm 1,72%; giá cà phê Arabica giao tháng 9/2024 tại New York ở mức 225 UScent/pound sau khi giảm 2,32%.

Cơ quan Dịch vụ Nông nghiệp Nước ngoài (FAS) của USDA, dự đoán rằng sản lượng cà phê thế giới vào năm 2023/24 sẽ tăng 4,2% so với cùng kỳ lên 171,4 triệu bao, với sản lượng cà phê arabica tăng 10,7% lên 97,3 triệu bao. Trong khi đó, sản lượng cà phê Robusta giảm -3,3% xuống còn 74,1 triệu bao.

Hạn hán, sâu bệnh ảnh hưởng nặng tới năng suất cây cà phê ở nhiều nơi. Sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2023 -2024 ước giảm 20% so với niên vụ trước, xuống còn 1,47 triệu tấn, thấp nhất trong 4 năm, đặt áp lực lên nguồn cung Robusta trên thị trường thế giới.


Giá gạo tăng nhẹ

Ghi nhận thị trường gạo hôm nay giá bình ổn. Tại các kho gạo ở Sa Đéc, giá ổn định, kho mua bán chững. Các địa phương như Long An, Đồng Tháp, Hậu Giang hôm nay nhu cầu kho mua đều, giao dịch ổn định, gạo đẹp ít, giá vững.

Theo đó, giá gạo hôm nay tăng nhẹ. Cụ thể giá gạo nguyên liệu IR 504 tăng nhẹ 50 đồng/kg ở mức 10.750 - 10.850 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 tăng 50 đồng/kg ở mức 12.600 - 12.750 đồng/kg.

Trên thị trường lúa, giá chào xu hướng cao hơn, ghi nhận tại các địa phương như An Giang, giá biến động nhẹ, chất lượng lúa đẹp, giao dịch chậm. Tại Hậu Giang, giao dịch lúa đều, thương lái hỏi mua nhiều. Tại Đồng Tháp, giá lúa bình ổn, nhu cầu mua lúa cao hơn.

Cụ thể, theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, lúa Đài thơm 8 dao động quanh mốc 7.200 - 7.400 đồng/kg; lúa OM 18 ở mức 7.200 - 7.400 đồng/kg; lúa IR 504 ở mức 7.000 - 7.200 đồng/kg; lúa OM 5451 ở mức 6.900 - 7.000 đồng/kg; lúa Nàng Hoa 9 dao động quanh mốc 7.600 - 7.700 đồng/kg; lúa OM 380 ở mức 6.800 - 7.000 đồng/kg.

Cũng theo đó, thị trường nếp ghi nhận không điều chỉnh so với hôm qua. Nếp đùm 3 tháng (khô) giữ nguyên giá 8.800 - 9.200 đồng/kg. Tương tự, 9.500 - 9.700 đồng/kg là giá bán được áp dụng với nếp Long An (khô). Mặt khác, nếp 3 tháng (tươi) và nếp Long An (tươi) tiếp tục ổn định trong ngày hôm nay.

Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam không điều chỉnh. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm ổn định ở mức 473 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% tấm hiện ở mức 569 USD/tấn; gạo 25% tấm ổn định ở mức 547 USD/tấn.


Giá ớt tiếp tục tăng mạnh

Hơn 1 tháng qua, giá ớt sừng, ớt chỉ thiên tại chợ tiếp tục tăng thêm khoảng 10.000 đ/kg. Hiện giá ớt chỉ thiên loại 1 (trái to, da bóng) tại vườn tăng từ 25.000-30.000 đ/kg lên 35.000-40.000 đ/kg so với tháng trước, trong khi giá bán lẻ tại chợ dao động 50.000-60.000 đ/kg, ớt hiểm nhỏ 40.000-50.000 đ/kg.

Giá ớt sừng vàng được nhà vườn bán cho thương lái 40.000-50.000 đ/kg tùy kích cỡ. Theo tiểu thương bán rau củ tại chợ Vĩnh Long: Giá ớt tăng do nhà vườn giảm diện tích trồng, cộng thêm thời tiết diễn biến bất thường nên nguồn cung giảm.

Cùng tăng giá còn có một số rau nêm gia vị như hành lá, rau thơm, ngò rí. Cụ thể, ngò rí 100.000 đ/kg; giá rau thơm tăng gấp đôi so với vài tháng trước, ở mức 50.000-55.000 đ/kg; hành lá 30.000 đ/kg.


KHÁNH LINH (t/h)

Chia sẻ Facebook