Giá nông sản 19/6: Hồ tiêu biến động trái chiều, cà phê tiếp đà tăng
Hồ tiêu biến động trái chiều, xuất khẩu tiêu sang Trung Quốc khởi sắc, cà phê tiếp đà tăng mạnh hơn 1%, giá gạo tiếp tục giảm nhẹ 100 đồng/kg.
Hồ tiêu biến động trái chiều
Ở trong nước, thị trường hồ tiêu ngày 19/6 biến động trái chiều so với hôm qua. Cụ thể, Đắk Lắk tăng thêm 2.000 đồng, thu mua hồ tiêu lên giá 162.000 đ/kg;
Giá hồ tiêu Đắk Nông hôm nay giao dịch lên mức 162.000 đ/kg, tăng 1.000 đồng; Giá tiêu Gia Lai hôm nay vẫn đang duy trì tại mốc 158.000 đ/kg;
Sau khi giảm 1.000 đồng, thương lái Đồng Nai thu mua hồ tiêu về giá 157.000 đ/kg; Tương tự, giá hồ tiêu Bà Rịa - Vũng Tàu đã rơi về ngưỡng 158.000 đ/kg; Còn thương lái Bình Phước giao dịch hồ tiêu ở giá 156.000 đ/kg, giảm 2.000 đồng.
Số liệu sơ bộ của VPSA cho thấy, xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam trong tháng 5 đạt 31.357 tấn với kim ngạch thu về 141 triệu USD, tăng 19,5% về lượng và tăng 21,1% về kim ngạch so với tháng trước.
Đáng chú ý, xuất khẩu hồ tiêu sang Trung Quốc khởi sắc trở lại với khối lượng đạt 3.137 tấn, tăng gấp 4,8 lần so với tháng trước và là mức cao nhất trong 11 tháng.
Theo VPSA, nhu cầu nhập khẩu hồ tiêu của Trung Quốc trong những tháng đầu năm ở mức thấp do lượng tồn kho của năm trước vẫn còn. Và có dấu hiệu cho thấy, trong quý II/2024. Trung Quốc sẽ tham gia thị trường, đầu tiên là mặt hàng tiêu trắng và sau đó là tiêu đen.
Năm ngoái, Trung Quốc là thị trường lớn nhất của hồ tiêu Việt Nam với khối lượng nhập khẩu lên đến hơn 60.000 tấn. Ngoài Trung Quốc, xuất khẩu tiêu sang thị trường Mỹ và châu Âu cũng đạt mức cao nhất trong 4 - 5 năm trở lại đây.
Theo đó, giá hạt tiêu đen Lampung tại Indonesia neo ở mức 6.418 USD/tấn. Còn giá hạt tiêu trắng Muntok của quốc gia này giữ ở ngưỡng 8.377 USD/tấn.
Giá hồ tiêu đen Kuching ASTA của Malaysia duy trì ổn định ở mức 4.900 USD/tấn; còn hồ tiêu trắng ASTA của quốc gia này vẫn có giá 7.300 USD/tấn.
Đối với thị trường Brazil, giá hạt tiêu đen ASTA 570 giảm 300 USD; về mức 7.600 USD/tấn.
Hồ tiêu đen xuất khẩu loại 500 g/l giao dịch tại mức 7.800 USD/tấn; còn loại 550 g/l giữ ở ngưỡng 8.000 USD/tấn. Còn giá hồ tiêu trắng xuất khẩu neo ở mốc 12.000 USD/tấn.
Giá cà phê tiếp đà tăng mạnh hơn 1%
Tại huyện Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lộc (Lâm Đồng) giá cà phê hôm nay được thu mua với mức 119.000 đồng/kg.
Tại huyện Cư M'gar (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay ở mức 120.000 đồng/kg. Tại huyện Ea H'leo (Đắk Lắk), Buôn Hồ (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay được thu mua cùng mức 119.900 đồng/kg.
Tương tự tại tỉnh Đắk Nông, giá cà phê hôm nay thu mua ở mức 120.200 đồng/kg tại Gia Nghĩa và 120.100 đồng/kg ở Đắk R'lấp.
Tại tỉnh Gia Lai, giá cà phê hôm nay ở mức 120.000 đồng/kg (Chư Prông), ở Pleiku và La Grai cùng giá 119.900 đồng/kg. Còn giá cà phê hôm nay tại tỉnh Kon Tum được thu mua với mức 120.000 đồng/kg.
Thị trường cà phê trong nước quay đầu giảm
Theo ghi nhận mới nhất, giá cà phê trên thị trường thế giới tăng trở lại. Cụ thể, giá cà phê trực tuyến Robusta tại London giao tháng 9/2024 được ghi nhận tại mức 4.057 USD/tấn, tăng 1,2%; giá cà phê Arabica giao tháng 7/2024 tại New York ở mức 227,15 UScent/pound sau khi tăng 1,34%.
Tháng 9/2024, giá cà phê Robusta và Arabica trên thị trường thế giới giảm so với cuối tháng 4/2024 do dự báo sản sản lượng cà phê của Brazil tăng.
Thông tin từ Cooxupe cho biết, lượng thu hoạch của Brazil từ tháng 5/2024 đến tháng 7/2024 sẽ có sản lượng tăng khoảng 13,33%, xuất khẩu kỳ vọng sẽ tăng thêm khoảng 22,22% so với cùng kỳ năm trước.
Trong khi Conab (Công ty Cung ứng Quốc gia Brazil) đã điều chỉnh ước tính sản lượng cà phê của Brazil năm 2024 lên 58,8 triệu bao, so với dự báo tháng 1/2024 là 58,1 triệu bao. Trong đó, Brazil sẽ thu hoạch 42,11 triệu bao cà phê Arabica và 16,71 triệu bao cà phê Robusta.
Năng suất trung bình của cà phê Arabica và Robusta niên vụ này tại Brazil cũng được dự đoán sẽ tăng thêm gần 6% so với năm ngoái. Dự báo giá cà phê sẽ tăng trở lại, chủ yếu đến từ việc giới đầu tư gia tăng lo ngại đối với triển vọng nguồn cung từ Việt Nam.
Hiện các quỹ đầu cơ đã gia tăng vị thế mua ròng với dự báo nguồn cung Robusta từ Việt Nam sẽ còn tiếp tục khan hiếm trong thời gian tới. Thông tin từ nhà giao dịch Volcafe, sản lượng cà phê Robusta niên vụ 2024/2025 của Việt Nam ước đạt 24 triệu bao, mức thấp nhất trong vòng 13 năm, do thời tiết không thuận lợi.
Giá gạo tiếp tục giảm nhẹ
Cụ thể, theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, các giống lúa hôm nay không điều chỉnh. Trong đó, lúa IR 50404 giá dao động quanh mốc 7.400 - 7.500 đồng/kg; nếp Long An (khô) ở mức 9.500 - 9.700 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 giá 7.600 - 7.800 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ổn định 7.600 - 7.700 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 7.600 - 7.800 đồng/kg; lúa OM 380 dao động từ 7.500 - 7.600 đồng/kg. Lúa Nhật ở mốc ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg; Nàng Hoa 9 giá 7.600 - 7.700 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg; nếp đùm 3 tháng (khô) 8.8.000 - 9.200 đồng/kg.
Ghi nhận tại các kho gạo ở Kiên Giang, nguồn về chưa nhiều, ít gạo đẹp. Các địa phương như Đồng Tháp, An Giang hôm nay nguồn gạo về chưa nhiều, giao dịch chậm, gạo đa dạng về chất lượng, giá ổn định.
Tại thị trường gạo, giá gạo điều chỉnh giảm nhẹ 100 đồng/kg với gạo thành phẩm. Cụ thể, giá gạo thành phẩm IR 504 dao động quanh mốc 12.650 - 12.750 đồng/kg, giảm nhẹ 100 đồng/kg; gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu duy trì ở mức 10.600 - 10.800 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam duy trì ổn định. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo tiêu chuẩn 5% tấm hiện ở mức 570 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 549 USD/tấn; gạo 100% tấm ổn định ở mức 475 USD/tấn.
Cao su tiếp đà giảm
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 0,39% xuống mức 334,9 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h ngày 19/6 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 0,2% ở mức 14.855 Nhân dân tệ/tấn.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong tháng 5, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 84.467 tấn, trị giá 134,6 triệu USD, giảm 28% về lượng và 15% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 5 tháng đầu năm, xuất khẩu mặt hàng này đạt 572.284 tấn, trị giá 859,4 triệu USD, giảm 2,4% về lượng nhưng vẫn tăng 6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Trong đó, Trung Quốc tiếp tục là thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm, chiếm 66,5% tổng khối lượng xuất khẩu, với 380.416 tấn, trị giá 547 triệu USD.
KHÁNH LINH (t/h)