Đến ngày 15/3, cán cân thương mại thặng dư gần 3 tỷ USD
Trong kỳ 1 tháng 3/2023, cán cân thương mại hàng hóa thâm hụt 492 triệu USD. Tính từ đầu năm đến hết ngày 15/3/2023, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 2,94 tỷ USD
Số liệu thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính) cho thấy tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 3/2023 (từ ngày 1/3 đến ngày 15/3/2023) đạt 27,2 tỷ USD, tăng 17,3% (tương ứng tăng 4 tỷ USD) so với kết quả thực hiện trong nửa cuối tháng 02/2023.
Kết quả đạt được trong nửa đầu tháng 3/2023 đã đưa tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước đến hết ngày 15/3/2023 đạt 122,95 tỷ USD, giảm 13%, tương ứng giảm 18,39 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 86,66 tỷ USD, giảm 12,1% (tương ứng giảm 11,9 tỷ USD).
Kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt trên 1 tỷ USD
Tổng trị giá hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 3 năm 2023 đạt 13,34 tỷ USD, tăng 6,9% (tương ứng tăng 865 triệu USD về số tuyệt đối) so với kỳ 2 tháng 02/2023.
Trị giá xuất khẩu kỳ 1 tháng 3/2023 tăng so với kỳ 2 tháng 2/2023 ở một số nhóm hàng sau: máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện tăng 342 triệu USD, tương ứng tăng 18,2%; hàng dệt may tăng 149 triệu USD, tương ứng tăng 13,7%; thủy tinh & các sản phẩm từ thủy tinh tăng 107 triệu USD, tương ứng tăng 297%; phương tiện vận tải & phụ tùng khác tăng 100 triệu USD, tương ứng tăng 21,6%...
Như vậy, tính đến hết 15/3/2023, tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam đạt 62,94 tỷ USD, giảm 10,8% tương ứng giảm 7,64 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, một số nhóm hàng giảm như: hàng dệt may giảm 1,27 tỷ USD, tương ứng giảm 18%; gỗ & sản phẩm gỗ giảm 963 triệu USD, tương ứng giảm 30,6%; máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện giảm 906 triệu USD, giảm 8,9%; điện thoại các loại & linh kiện 577 triệu USD, tương ứng giảm 5%... so với cùng kỳ năm 2022.
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cũng cho thấy trị giá xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong kỳ 1 tháng 3/2023 đạt 9,75 tỷ USD, tăng 5,7% tương ứng tăng 525 triệu USD so với kỳ 2 tháng 2/2023. Tính đến hết ngày 15/3/2023, tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của nhóm các doanh nghiệp này đạt 47,08 tỷ USD, giảm 8,7%, tương ứng giảm 4,49 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, chiếm 74,8% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.
Trị giá nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ này đạt 8,71 tỷ USD
Tổng trị giá hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 3/2023 đạt 13,83 tỷ USD, tăng 29,4% (tương ứng tăng 3,14 tỷ USD về số tuyệt đối) so với kết quả thực hiện trong nửa cuối tháng 2/2023.
Trị giá nhập khẩu hàng hóa trong kỳ 1 tháng 3/2023 tăng so với kỳ 2 tháng 2/2023 chủ yếu ở một số nhóm hàng sau: máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện tăng 620 triệu USD, tương ứng tăng 23,7%; máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng khác tăng 383 triệu USD, tương ứng tăng 28,7%; nguyên vật liệu ngành dệt, may, da giày (bông, vải, xơ sợi, nguyên phụ liệu dệt, may, da giày) tăng 277 triệu USD, tương ứng tăng 34%...
Như vậy, tính đến hết 15/3/2023, tổng trị giá nhập khẩu của cả nước đạt 60 tỷ USD, giảm 15,2% (tương ứng giảm 10,75 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó một số nhóm hàng giảm mạnh như: điện thoại các loại & linh kiện giảm 2,92 tỷ USD, tương ứng giảm 64,5%; máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện giảm 1,95 tỷ USD, tương ứng giảm 11%; máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng khác giảm 1,44 tỷ USD, tương ứng giảm 16,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Trị giá nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ này đạt 8,71 tỷ USD, tăng 24,1% (tương ứng tăng 1,69 tỷ USD) so với kỳ 2 tháng 2/2023. Tính đến hết ngày 15/3/2023, tổng trị giá nhập khẩu của nhóm các doanh nghiệp này đạt 39,6 tỷ USD, giảm 15,8% (tương ứng giảm 7,42 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 66% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước.
Mới đây nhất, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Quyết định số 165/QĐ-TTg ngày 28/02/2023 phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương đến năm 2030. Theo đó, Quyết định đặt ra mục tiêu duy trì thặng dư cán cân thương mại với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu luôn cao hơn nhập khẩu và tăng bình quân khoảng 6 - 8%/năm.
Đề án cũng đặt mục tiêu phát triển nhanh, bền vững thị trường trong nước kết nối liền mạch với thị trường xuất nhập khẩu. Phát huy thế mạnh của thị trường trong nước để củng cố nội lực là yếu tố quyết định gắn với mở rộng thị trường bên ngoài, trong đó, xác định thương mại số, thương mại điện tử là động lực tăng trưởng quan trọng của kinh tế số.
Bên cạnh đó, đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu, chú trọng phát triển xuất khẩu qua thương mại điện tử xuyên biên giới, hệ thống phân phối nước ngoài và đẩy mạnh phát triển thương hiệu hàng Việt Nam, gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng chế biến sâu, công nghệ cao và tỷ lệ nội địa hóa lớn; phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới, tạo sự đột phá như các sản phẩm Halal sang các thị trường Hồi giáo, sản phẩm Kosher sang thị trường Do Thái, hàng hóa môi trường và các bon thấp...
Thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ hệ thống phân phối sang các loại hình phân phối hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa hệ thống phân phối ở vùng nông thôn, miền núi; Phát triển thương mại điện tử thành một kênh phân phối quan trọng, hỗ trợ tích cực trong tiêu thụ hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa nông sản, hàng công nghiệp tiêu dùng; phát triển các trung tâm tiêu dùng mới. Số hóa các hoạt động xúc tiến thương mại.
Tuệ Minh