Đề xuất tăng 7-8% lương tối thiểu vùng

Chia sẻ Facebook
13/04/2022 01:41:19

Lần gần nhất điều chỉnh tăng lương tối thiểu vùng đã cách đây hơn 2 năm.


Tại phiên họp thứ hai của Hội đồng Tiền lương quốc gia sáng 12/4, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Ngọ Duy Hiểu cho hay, hiện nay, phía đại diện người lao động đang đề xuất mức tăng lương tối thiểu vùng từ trên 7% đến trên 8%. Thời điểm tăng lương tối thiểu từ 1/7/2022.

Theo ông Ngọ Duy Hiểu, do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên 2 năm nay Chính phủ chưa điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng nên các doanh nghiệp tiếp tục duy trì mức lương tối thiểu theo Nghị định 90/2019/NĐ-CP, không điều chỉnh tiền lương cho người lao động. Lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng gần nhất là từ ngày 1/1/2020 với vùng I là 4,42 triệu đồng; vùng II 3,92 triệu; vùng III 3,42 triệu và vùng IV 3,07 triệu đồng.

Ông Hiểu cho rằng hiện nay, kinh tế đang phục hồi và phát triển mạnh mẽ, trong khi đó, người lao động hết sức khó khăn do tác động của dịch COVID-19 cùng với giá cả leo thang. Lúc này, buộc phải đề xuất tăng lương tối thiểu. Đây là động lực giúp người lao động vượt khó khăn, tích cực đóng góp vào sự phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức lao động.

"Việc tăng lương tối thiểu vùng mang lại quyền lợi cho cả 2 bên là chủ sử dụng lao động và người lao động. Thực tế càng lúc khó khăn càng phải an dân, tạo niềm tin cho người lao động", ông Hiểu cho biết.

Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng nhấn mạnh 2 năm qua, người lao động đã rất chia sẻ với doanh nghiệp, đồng hành, nỗ lực cùng với doanh nghiệp để vượt qua mọi khó khăn, dịch bệnh, ổn định tình hình sản xuất kinh doanh. Về phía doanh nghiệp cũng cần có trách nhiệm để bù đắp tiền lương, thu nhập đảm bảo đời sống cho người lao động.

Trước đó, tại phiên họp lần thứ nhất diễn ra chiều 28/3, đại diện Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), đề nghị tăng lương tối thiểu vùng từ ngày 1/1/2023.


Lương tối thiểu vùng là mức thấp nhất làm cơ sở để doanh nghiệp thỏa thuận, trả lương cho người lao động. Mức này áp dụng với người làm việc theo chế độ hợp đồng của Bộ luật Lao động; làm việc trong doanh nghiệp; hợp tác xã, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động theo hợp đồng; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam có thuê lao động.

Chia sẻ Facebook