Để dòng tiền hỗ trợ không chảy vào lĩnh vực đầu cơ
Cần triển khai thuế tài sản và áp dụng tỷ lệ tài trợ cho khoản vay mua bất động sản (BĐS) đầu tiên thấp hơn so với với BĐS thứ hai và thứ ba nhằm hạn chế dòng tiền chảy vào những lĩnh vực này, theo PGS. TS Tô Trung Thành – Trưởng phòng Quản lý khoa học, Đại học Kinh tế Quốc dân.
Để dòng tiền hỗ trợ không chảy vào lĩnh vực đầu cơ
Trao đổi với chúng tôi, PGS.TS Tô Trung Thành cho rằng Chính phủ cần có các biện pháp kiểm soát tín dụng vào BĐS có chọn lọc như giám sát việc tài trợ các dự án BĐS thuộc cổ đông lớn và người có liên quan đến cổ đông lớn của ngân hàng. Đồng thời giám sát các hình thức ủy thác, repo BĐS và rủi ro tại các tổ chức tín dụng có dấu hiệu bất ổn liên quan đến đầu tư/kinh doanh BĐS.
Ưu tiên nguồn lực cho doanh nghiệp có sức lan toả lớn
– Ông đánh giá thế nào về khả năng phục hồi của kinh tế Việt Nam giai đoạn 2022-2023 sau khi Quốc hội và Chính phủ lần lượt ban hành Chương trình và các chính sách phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội với quy mô 380.000 tỉ đồng?
– PGS.TS Tô Trung Thành : Kế hoạch và thực tế tăng trưởng của Việt Nam năm 2021 có khoảng cách rất lớn do những thay đổi khó lường của dịch Covid-19 và các chính sách giãn cách chặt chẽ trong bối cảnh vaccine chưa được tiêm phủ trên toàn quốc. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam năm 2022 dự kiến sẽ phục hồi với mức tăng trưởng 6-6,5% GDP – tương tự như các dự báo của các tổ chức quốc tế như IMF, ADB – do tỷ lệ tiêm phủ vaccine đã ở mức cao, tạo điều kiện để nền kinh tế mở cửa trở lại thực hiện chuyển hướng chiến lược phòng, chống dịch sang “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”.
Theo đó, các hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản đã trở lại trạng thái bình thường mới, khả năng giãn cách xã hội chặt chẽ gây tiêu cực nặng nề đến nền kinh tế khó có khă năng xảy ra trong năm 2022.
Ngoài ra, kỳ họp bất thường lần thứ nhất Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết 43/2022 về chính sách tài khoá, tiền tệ để hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội và triển khai Nghị quyết số 43 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình.
Nghị quyết đã đưa ra 5 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu gồm: i) mở cửa nền kinh tế gắn với đầu tư nâng cao năng lực y tế, phòng, chống dịch bệnh; ii) bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm, iii) kỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; iv) đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; v) cải cách thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Quy mô của gói hỗ trợ này là lớn nhất từ trước đến nay.
Với tình hình dịch bệnh mới và được thúc đẩy bởi gói hỗ trợ phục hồi kinh tế mới, tăng trưởng sẽ hồi phục thông qua các động lực tăng trưởng.
Về khu vực sản xuất, động lực tăng trưởng kinh tế vẫn đến từ đầu tàu là khu vực kinh tế đối ngoại vốn có đóng góp lớn đến sản xuất sản phẩm chế biến, chế tạo và xuất khẩu.
Về thành tố chi tiêu, bù đắp cho đầu tư khu vực tư nhân còn khó khăn, chưa thể hồi phục nhanh do tác động của đại dịch, đầu tư công được tăng cường sẽ đóng góp lớn vào tăng trưởng của năm 2022. Ngoài ra, những giải pháp đảm bảo an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm được thực hiện giúp tăng các mức chi tiêu, đóng góp lớn vào quy mô nền kinh tế.
Về ngành sản xuất, ngành dịch vụ có cơ hội hồi phục mạnh mẽ trong năm 2022 với sự mở cửa trở lại của nền kinh tế. Đây là ngành có vai trò lớn trong đóng góp vào tăng trưởng trong những năm gần đây.
Bên cạnh đó, chất lượng tăng trưởng năm 2022 cũng được dự báo ở mức cao hơn. Tổ chức năng suất Châu Á dự báo tốc độ tăng trưởng TFP của Việt Nam được đánh giá là nền kinh tế có sự hồi phục khá tốt, với tốc độ tăng TFP ở mức cao. TFP năm 2022 tăng 3%, trong khi giai đoạn 2020-2025 tăng trung bình là 1,7% một năm. Mức tăng trưởng này cao hơn mức tăng trưởng trung bình của khu vực ASEAN và chỉ đứng sau Thái Lan.
Tương tự, Tổ chức năng suất Châu Á (APO) dự báo năng suất lao động của Việt Namnăm 2022 và cả giai đoạn 2020-2025 đạt mức tương ứng là 6% và 4,8%, đứng đầu khu vực ASEAN và cao hơn nhiều các quốc gia khác trong khu vực.
Có ý kiến lo ngại dòng tiền hỗ trợ phục hồi kinh tế sẽ chảy vào các lĩnh vực đầu cơ, tiềm ẩn nhiều rủi ro như bất động sản (BĐS) và trái phiếu doanh nghiệp, ông có giải pháp gì để hạn chế rủi ro này?
Cần chú trọng chuyển hướng các dòng vốn tín dụng vào các khu vực sản xuất và nền kinh tế thực, kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng “nóng” ở các thị trường tài sản.
Với chính sách tài khoá, có thể triển khai thuế tài sản để hạn chế dòng tiền đầu cơ vào thị trường bất động sản, vàng.
Với chính sách tiền tệ, có thể áp dụng chính sách lãi suất. Theo đó, tỉ lệ tài trợ cho khoản vay mua nhà đất cần có khác biệt giữa BĐS đầu tiên mà cá nhân, hộ gia đình sở hữu với BĐS thứ hai và thứ ba.
Ngoài ra, cần kiểm soát cung tiền vào thị trường BĐS và nắn dòng tiền của khu vực ngân hàng vào khu vực nền kinh tế thực, lĩnh vực lan tỏa như sản xuất, kinh doanh, tạo công ăn việc làm bằng các biện pháp kiểm soát tín dụng vào BĐS có chọn lọc như giám sát việc tài trợ các dự án BĐS thuộc cổ đông lớn và người có liên quan đến cổ đông lớn của ngân hàng, giám sát các hình thức ủy thác, repo BĐS, tăng cường giám sát rủi ro tại các tổ chức tín dụng có dấu hiệu bất ổn liên quan đến đầu tư/kinh doanh BĐS.
Bên cạnh đó, cần xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp công tác giữa các cơ quan quản lý, thanh tra, giám sát thị trường tài chính, gồm: Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Uỷ ban Giám sát tài chính Quốc gia.
Xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu dùng chung cho thị trường tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm phục vụ công tác quản lý, giám sát thị trường nhằm ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro tiềm ẩn, giảm thiểu cạnh tranh không lành mạnh, nhận diện sớm hành vi trục lợi và thao túng thị trường và cảnh báo sớm rủi ro hệ thống, đảm bảo cho thị trường tài chính hoạt động an toàn, lành mạnh, phát triển cân đối và bền vững.
Vậy chính sách phục hồi kinh tế nên ưu tiên cho những ngành, lĩnh vực hoặc đối tượng nào?
Các chính sách tài khóa và tiền tệ cần hướng các giải pháp cũng như nguồn lực ưu tiên đến khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp có ảnh hưởng lan tỏa lớn đến các doanh nghiệp và các khu vực khác của nền kinh tế, các doanh nghiệp hạt nhân của các chuỗi cung ứng hoặc chuỗi giá trị, các doanh nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong chuỗi và doanh nghiệp có thị phần xuất khẩu lớn, đảm bảo duy trì được đơn hàng và lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Ngoài ra, cần ưu tiên hỗ trợ các doanh nghiệp lớn có khả năng nghiên cứu và ứng dụng, triển khai đổi mới sáng tạo tốt hơn, tạo ra được lợi thế cạnh tranh đi đầu về năng lực sản xuất hoặc rút ngắn khoảng cách với các doanh nghiệp hàng đầu thế giới.
Các chính sách cũng nên hướng tập trung vào lĩnh vực kinh tế số, một động lực tăng trưởng mới cho tăng trưởng trong giai đoạn phát triển sắp tới. Cụ thể, cần thực hiện các chính sách kinh tế ưu đãi về thuế, về tín dụng với các doanh nghiệp đầu tư vào khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới, ứng dụng công nghệ cao, hiện đại vào sản xuất trong bối cảnh trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn khá lạc hậu, số lượng các doanh nghiệp tham gia các hoạt động đổi mới sáng tạo còn hạn chế, tỷ lệ các doanh nghiệp chi cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển rất thấp.
Bên cạnh đó, cần khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và đội ngũ doanh nhân.
Đặc biệt, Chính phủ cần tạo dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật số để các doanh nghiệp hòa nhập và nắm bắt được xu hướng và thế mạnh của kỷ nguyên kỹ thuật số. Đầu tư công vào phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT)/viễn thông, gồm: điện toán đám mây, mạng, bảo mật dữ liệu, nền tảng TMĐT bao gồm cả cho hàng hóa trung gian, thanh toán điện tử và ngân hàng điện tử nhằm giúp các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doan nghiệp nhỏ và vừa cải thiện sự sẵn sàng đối với kỷ nguyên công nghệ số.
Việc tập trung ưu tiên và hỗ trợ cho các loại hình doanh nghiệp trên cũng sẽ tạo điều kiện để tạo cầu lao động, hỗ trợ an sinh xã hội (thông qua doanh nghiệp), đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động.
Rủi ro từ căng thẳng địa chính trị toàn cầu
– Căng thẳng địa chính trị giữa Nga và các quốc gia phương Tây, cùng xu hướng gia tăng lạm pháp tại các khu vực kinh tế lớn như Mỹ và EU tác động ra sao tới quá trình phục hồi kinh tế năm 2022, thưa ông?
Ảnh hưởng toàn cầu của xung đột Nga – Ukraine có thể tóm tắt trong một số điểm chính.
Thứ nhất, xung đột khiến giá nhiều loại hàng hoá phổ thông như dầu mỏ, khí đốt, kim loại và lương thực tăng mạnh.
Cụ thể, nhiều nhà buôn dầu mỏ trên thế giới do lo ngại các lệnh trừng phát đã né tránh thu mua dầu của Nga. Điều này đã đẩy giá dầu lên nhiều mức cao kỷ lục trong thời gian vừa qua. IEA dự báo đây sẽ là cuộc khủng hoảng nguồn cung dầu thô lớn nhất trong nhiều thập kỷ và giá dầu sẽ còn tăng mạnh trong thời gian tới.
Ngoài dầu thô, Nga còn là nhà xuất khẩu lớn các mặt hàng như kim loại, phân bón. Nga và Ukraine cũng nằm trong số những nước xuất khẩu lúa mỳ lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 25% sản lượng toàn cầu và cung cấp tới 12% tổng lượng calo trong lương thực thực phẩm toàn cầu.
Vì vậy, các mặt hàng này được dự báo sẽ tăng giá rất mạnh trong thời gian tới.
Thứ hai, chuỗi cung ứng toàn cầu chịu ảnh hưởng rất lớn. Việc Nga và nhiều quốc gia thực hiện các lệnh cấm bay đã gây ảnh hưởng lớn tới việc vận chuyển hàng không. Vận chuyển đường bộ giữa Châu Âu và Châu Á, vận chuyển đường thuỷ trên Biển Đen cũng chịu ảnh hưởng nặng nề trong thời gian diễn ra chiến sự.
Yếu tố này, kết hợp với giá nhiên liệu tăng đã tăng chi phí đáng kể cho các hoạt động thương mại quốc tế.
Thứ ba, sự kiện này dẫn tới những căng thẳng trên thị trường tài chính. Để giảm rủi ro, các nhà đầu tư có thể rút vốn khỏi các thị trường đang phát triển, làm giảm giá chứng khoán, giảm giá trị tiền tệ và tạo ra phần bù rủi ro cao hơn cho các loại trái phiếu.
Hiệu ứng này sẽ gây ra ảnh hưởng xấu cho nhiều nền kinh tế đang phát triển, vốn đã có gánh nặng nợ lớn. Áp lực tài chính còn được gia tăng bởi các động thái tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương nhằm kiềm chế lạm phát.
Tóm lại, xung đột giữa Nga và Ukraine sẽ ảnh hưởng xấu đến triển vọng kinh tế thế giới trong năm 2022 và các năm sau đó. Lạm phát toàn cầu cũng được dự báo là sẽ tăng cao trong năm 2022.
Mức lạm phát này sẽ ảnh hưởng bất lợi đến cả những quốc gia được hưởng lợi từ việc xuất khẩu năng lượng. Nó cũng đặt ra thách thức cho các Ngân hàng Trung ương trong việc tìm ra biện pháp kiềm chế lạm phát trong bối cảnh nền kinh tế còn đang phục hồi sau đại dịch.
biến động trên thế giới ảnh hưởng ra sao đến sự hồi phục của kinh tế Việt Nam?
Thứ nhất, con đường hồi phục toàn cầu và của các nước bạn hàng lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Trung Quốc bị đe dọa, theo đó ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư tại Việt Nam.
Thứ hai, việc Chính phủ và Ngân hàng Trung ương của các quốc gia lớn, đặc biệt là Mỹ, có động thái thắt chặt tiền tệ do lo ngại lạm phát, là có tác động đến kinh tế, tài chính thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Với Việt Nam, dư địa các chính sách tài khóa và tiền tệ để hỗ trợ hồi phục kinh tế sẽ bị thu hẹp hơn. Lãi suất đồng đô-la Mĩ tăng có thể làm gia tăng tăng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài, nợ công gia tăng do tỷ lệ nợ nước ngoài bằng đồng đô-la vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ nước ngoài.
Yếu tố này sẽ thu hẹp không gian tài khóa, dù tác động không quá lớn khi tỉ trọng vay nợ nước ngoài chỉ chiếm 1/3 tổng dư nợ công trong nước những năm gần đây.
Không gian tiền tệ bị tác động mạnh hơn do một số tác động sau.
(i) Lãi suất đô-la Mĩ có xu hướng tăng khiến Ngân hàng Trung ương các nước, bao gồm Việt Nam có xu hướng tăng lãi suất, hoặc chí ít cũng khó có thể giảm sâu được lãi suất, điều này khiến quá trình tiếp tục giảm lãi suất để hỗ trợ kinh tế khó khăn hơn
(ii) Tỉ giá đô-la Mĩ có xu hướng tăng có thể ảnh hưởng đến lạm phát trong nước, theo đó, chính sách nới lỏng tiển tệ trong nước phải cẩn trọng hơn để ổn định vĩ mô.
Thứ ba, diễn biến giá dầu tăng cao đặt ra thêm những thách thức rất lớn đến kinh tế. Cụ thể, trung bình giá xăng dầu tính tới 11-3-2022 đã tăng 45,2% so năm năm 2021, và nếu theo Dự thảo giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu thì giá xăng dầu tăng 41%.
Sử dụng bảng cân đối liên ngành I/O, tính toán của chúng tôi cho thấy nếu giá xăng dầu tăng 45,2%, ảnh hưởng trực tiếp tức thời đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,6%, chỉ số giá sản xuất (PPI) tăng khoảng 2,34%, và ở chu kỳ sản xuất tiếp theo, GDP có thể giảm khoảng 8% so với kịch bản giá xăng dầu không tăng.
Trong trường hợp Dự thảo được thực hiện, giá xăng dầu tăng so với bình quân năm 2021 khoảng 41%, ảnh hưởng trực tiếp đến giá tiêu dùng tăng 0,5%; chỉ số giá sản xuất tăng 2,2%; GDP ở chu kỳ sản xuất tiếp theo giảm 7,3% so với kịch bản giá xăng dầu không tăng.
Hoàng Thắng
TBKTSG