Chuyên gia khuyến nghị gì cho Việt Nam khi áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu?
Trong khuôn khổ Hội thảo khoa học với chủ đề: “Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu: Kinh nghiệm áp dụng của các quốc gia, dự kiến tác động và khuyến nghị giải pháp cho Việt Nam” được Bộ Tài chính tổ chức vào sáng ngày 18/4, các chuyên gia, các nhà quản lý, các nhà khoa học, các tổ chức quốc tế, các hiệp hội doanh nghiệp…đã tập trung làm rõ một số nội dung của quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu. Trên cơ sở đó đã gợi mở thêm nhiều vấn đề mới nhằm góp phần hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách liên quan đến thuế tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam.
Chuyên gia khuyến nghị gì cho Việt Nam khi áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu?
Trong khuôn khổ Hội thảo khoa học với chủ đề: “Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu: Kinh nghiệm áp dụng của các quốc gia, dự kiến tác động và khuyến nghị giải pháp cho Việt Nam” được Bộ Tài chính tổ chức vào sáng ngày 18/4, các chuyên gia, các nhà quản lý, các nhà khoa học, các tổ chức quốc tế, các hiệp hội doanh nghiệp…đã tập trung làm rõ một số nội dung của quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu. Trên cơ sở đó đã gợi mở thêm nhiều vấn đề mới nhằm góp phần hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách liên quan đến thuế tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam.
Đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà đầu tư và quyền thu thuế của Việt Nam
Phát biểu tại Hội thảo ông Đặng Ngọc Minh - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho rằng, nếu Việt Nam áp dụng quy định thuế tối thiểu nội địa đạt chuẩn, Việt Nam sẽ có quyền đánh thuế bổ sung đối với những doanh nghiệp FDI đang được hưởng thuế suất thực tế tại Việt Nam thấp hơn mức tối thiểu 15%, từ đó sẽ tăng thu ngân sách nhà nước.
Theo ông Đặng Ngọc Minh, trong trường hợp Việt Nam không thu thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung thì toàn bộ số thu được ưu đãi cho các doanh nghiệp hiện tại sẽ được các nước phát triển có doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam thu về ngân sách của các nước đó. Mặt khác, khi Việt Nam áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu đối với những doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài thuộc đối tượng áp dụng của Thuế tối thiểu toàn cầu và có công ty con ở nước khác có số thuế TNDN thực tế thấp hơn mức tối thiểu thì sẽ thu thêm được thuế TNDN từ những doanh nghiệp này, từ đó tăng thu NSNN.
Theo dữ liệu, thông tin thống kê sơ bộ từ cơ sở dữ liệu doanh nghiệp toàn cầu thì hiện có khoảng 1,017 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có công ty mẹ thuộc đối tượng áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu. Trong đó có khoảng ít nhất trên 100 doanh nghiệp lớn có khả năng chịu ảnh hưởng của Thuế tối thiểu toàn cầu nếu áp dụng từ năm 2024 (sau khi đã loại trừ các trường hợp không phải áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu). Theo đó, nếu các quốc gia khác đều áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu bắt đầu từ năm 2024, các quốc gia có công ty mẹ sẽ được thu thêm phần thuế chênh lệch năm 2024 ước tính khoảng 12,000 đến 20,000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, thuế tối thiểu toàn cầu cũng tạo ra cơ hội khi Việt Nam áp dụng quy định chung về Thuế tối thiểu. Theo đó, Việt Nam có quyền đánh thuế bổ sung đối với các doanh nghiệp Việt Nam nếu thuộc đối tượng áp dụng của Thuế tối thiểu toàn cầu đầu tư ra nước ngoài, và đang được hưởng thuế suất thực tế thấp hơn mức tối thiểu 15% tại các nước khác.
Theo ông Đặng Ngọc Minh, cần bổ sung quy định về Thuế tối thiểu toàn cầu áp dụng tại Việt Nam với lộ trình như sau: Thứ nhất, cần bổ sung quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định về Thuế tối thiểu toàn cầu (đạt chuẩn 15%) để ứng phó với Thuế tối thiểu toàn cầu của các nước và áp dụng từ ngày 1/1/2024.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu bổ sung quy định về Thuế tối thiểu toàn cầu để áp dụng đối với các doanh nghiệp Việt Nam có đầu tư ra nước ngoài và các doanh nghiệp khác thuộc đối tượng áp dụng của Thuế tối thiểu toàn cầu để thu phần chênh lệch (nếu có).
Để hạn chế tác động tiêu cực của Thuế tối thiểu toàn cầu đối với thu hút đầu tư tại Việt Nam, theo ông Đặng Ngọc Minh, cần có các giải pháp hỗ trợ tài chính trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng phải đảm bảo không vi phạm quy tắc về Thuế tối thiểu toàn cầu, phù hợp với cam kết, thông lệ quốc tế, công khai minh bạch, giảm thiểu tác động xấu tới môi trường đầu tư.
Các giải pháp hỗ trợ cần được nghiên cứu ban hành có thể bao gồm việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng cơ bản cho sản xuất, đầu tư hình thành tài sản cố định cho sản xuất công nghiệp, bảo vệ môi trường, hỗ trợ nhà ở cho công nhân, hỗ trợ bảo hiểm xã hội, y tế cho người lao động, hỗ trợ cho nghiên cứu và phát triển, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường. Để thực hiện được chương trình hỗ trợ nhà nước cũng cần bố trí các nguồn lực tài chính, đất đai, đào tạo nguồn nhân lực để duy trì sức hấp dẫn và ổn định môi trường đầu tư.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Như Quỳnh, Viện trưởng Viện CL &CSTC (Bộ Tài chính) nhấn mạnh: Việt Nam cần điều chỉnh chính sách để thích ứng với bối cảnh mới phù hợp với các quy tắc chung của thuế tối thiểu toàn cầu. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tiếp tục tạo môi trường đầu tư hấp dẫn song phải hài hòa lợi ích của nhà đầu tư và quyền thu thuế của Việt Nam để đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Ông Nguyễn Như Quỳnh đề xuất bổ sung quy định về cơ chế thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn đối với các doanh nghiệp đa quốc gia đầu tư tại Việt Nam đang có mức thuế suất thực tế tối thiểu dưới 15% và giữ nguyên mức thuế suất phổ thông 20% như hiện nay.
“Việc hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cần xác định mục tiêu rõ ràng, không chỉ nhằm phù hợp với việc thực thi thuế tối thiểu toàn cầu mà còn nhằm thiết kế lại các chính sách ưu đãi thuế một cách đồng bộ với các chính sách khác ngoài thuế nhằm khuyến khích, thu hút đầu tư. Cùng với đó, Việt Nam cũng cần nghiên cứu, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư về các chính sách ngoài thuế, như miễn, giảm tiền thuê đất, cải cách thủ tục hành chính nhằm cắt giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp...,” ông Nguyễn Như Quỳnh nhấn mạnh.
Cân nhắc giải pháp áp dụng thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn
Cũng tại Hội thảo, theo bà Nguyễn Thị Cúc- Chủ tịch Hội Tư vấn thuế, ưu đãi thuế vẫn luôn là một trong những công cụ quan trọng thu hút đầu các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam. Khi Việt Nam áp dụng mức thuế suất tối thiểu 15% chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở cả tính hồi tố với các tập đoàn lớn thộc điều chỉnh thuế suất tối thiểu và cả các tập đoàn mới chuẩn bị chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tư.
Theo bà Nguyễn Thị Cúc, nếu Việt Nam không ban hành mức thuế tối thiểu, vẫn để ưu đãi thuế TNDN như hiện hành thu thì các doanh nghiệp Hàn Quốc đang đầu tư ở Việt Nam thuộc đối tượng phải áp dụng thuế này, vẫn phải nộp bổ sung phần chênh lệch thuế suất thấp tại Việt Nam với thuế suất 15% về Hàn Quốc. Do đó, Việt Nam cần thực hiện sớm thuế tối thiểu, nhưng cũng phải tìm cách điều chỉnh chính sách ưu đãi khác tương thích để vừa đảm bảo quyền đánh thuế, vừa ít tác động nhất đến các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang, sẽ kinh doanh tại Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Cúc khuyến nghị, Việt Nam có thể cân nhắc giải pháp áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn để giành quyền thu phần thuế bổ sung trước các quốc gia khác như một số nước trong khu vực đang áp dụng.
Chủ động giành quyền đánh thuế
Tham luận gửi đến hội thảo, bà Hương Vũ - Tổng giám đốc Công ty EY Việt Nam cho rằng, gần tới thời điểm áp dụng của các Quy tắc Trụ cột 2 về thuế tối thiểu toàn cầu, nhiều quốc gia đã và đang thể hiện những phản ứng rất nhanh chóng và tích cực trong việc thực thi các Quy tắc này. Xem xét ảnh hưởng của các Quy tắc này đến các quốc gia cần phân biệt theo hai nhóm đối tượng: Nhóm các nước đi đầu tư (xuất khẩu vốn) và Nhóm các nước nhận đầu tư (nhập khẩu vốn). Việt Nam thuộc nhóm thứ hai. Trong cuộc chơi này, mỗi quốc gia đều có sự tự chủ nhưng đều phải rất chủ động để bảo về quyền lợi của chính mình vì không có cách nào để đứng ngoài cuộc.
Đối với các nhà đầu tư thuộc đối tượng áp dụng của Trụ cột 2, các ưu đãi về thuế TNDN mà Việt Nam cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài vốn được coi như một công cụ thu hút đầu tư rất hiệu quả từ trước tới nay sẽ không còn phát huy tác dụng như trước nữa. “Vì vậy, với vị trí là một nước tiếp nhận đầu tư, bài toán về chính sách đặt ra cho Việt Nam tại thời điểm này cần đạt được hai mục tiêu quan trọng: Việt Nam cần chủ động giành quyền đánh thuế và Việt Nam cần tiếp tục tạo môi trường đầu tư thuận lợi để đảm bảo cạnh tranh hiệu quả trong thu hút đầu tư nước ngoài”, bà Hương Vũ nhận định.
Trong bối cảnh suy thoái kinh tế chung trên toàn cầu cùng lúc các quy tắc mới về thuế tối thiểu được áp dụng, đây có thể xem như là tác động kép đối với các doanh nghiệp. Đối tượng ảnh hưởng của các Quy tắc này lại là các doanh nghiệp lớn mà Việt Nam đang muốn thu hút. Theo bà Hương Vũ, tại thời điểm này sự đồng hành của Chính phủ với các nhà đầu tư là yếu tố đặc biệt quan trọng. Đồng thời cũng cần có các biện pháp hỗ trợ hiệu quả, kịp thời để đảm bảo lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp khi tiếp tục hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Về kiến nghị giải pháp, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, nên thực hiện quyền đánh thuế và chủ động trong thực hiện. Về hướng dẫn thuế tối thiểu nội địa đạt chuẩn, cần phải tham khảo kinh nghiệm các nước. Chúng ta cần có cơ chế chính sách, để bù đắp phần nào những thiệt thòi ngắn hạn của các doanh nghiệp FDI khi phải bổ sung phần thuế không nhiều đó.
Đối với chính sách hỗ trợ nhà đầu tư, theo chuyên gia Cấn Văn Lực cần phải thực hiện theo 4 nguyên tắc cụ thể: Cần phải đạt chuẩn của OECD; tránh hỗ trợ theo hình thức cào bằng, phải gắn với từng lĩnh vực, quy mô và công nghệ; phải khả thi trong hỗ trợ; cũng như phải phù hợp với chiến lược đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, TS. Cấn Văn Lực cho rằng cần phải rà soát, sửa đổi một số luật như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, các Luật về Thuế…Đồng thời, chủ động nâng cao năng lực nội địa, cải cách môi trường đầu tư kinh doanh; sớm kiện toàn và nâng cao năng lực quản lý thuế...
Nhật Quang