Châu Á, châu Âu cạnh tranh gay gắt đẩy giá khí đốt tăng 1.100% - thách thức mới của các quốc gia châu Á bao gồm cả Việt Nam
Giá các lô hàng LNG tăng đến 12 lần khi châu Âu tăng cường nhập khẩu và sẵn sàng trả giá cao đã đặt ra nhiều thách thức với các quốc gia châu Á về an ninh năng lượng, trong đó có Việt Nam.
Thị trường châu Á vẫn được kỳ vọng sẽ thúc đẩy nhu cầu toàn cầu đối với LNG. Tuy nhiên khi Nga ngừng cung cấp các đường ống dẫn khí đốt đến châu Âu đã thúc đẩy châu lục này tăng nhập khẩu LNG để thay thế. Cuộc cạnh tranh gay gắt giữa người mua châu Á và châu Âu đã đẩy mức giá tiêu chuẩn châu Á tăng khoảng 12 lần từ đầu năm 2021 lên khoảng 70 USD/mBTU trong năm nay.
Giá tăng cao đã khiến các quốc gia như Pakistan, Ấn Độ và Bangladesh phải vật lộn để mua đủ LNG. Theo công ty dữ liệu Vortexa, họ đã hạn chế mua các lô hàng LNG đến 11% kể từ khi xung đột tại Ukraine bắt đầu diễn ra. Ở Bangladesh, Chính phủ đã phải đưa ra những biện pháp để tiết kiệm năng lượng.
Một trong những yếu tố đẩy giá LNG lên cao là vấn đề nguồn cung, dự kiến sẽ không tăng đáng kể cho đến năm 2026. Sự thiếu hụt nguồn cung đang tác động lớn đến khả năng chi trả của một số quốc gia châu Á mới nổi, khiến họ gặp khó khăn trong việc cân bằng năng lượng.
Các quốc gia Đông Nam Á và Nam Á vốn phụ thuộc nhiều vào nhiều nguồn năng lượng ngoài khí đốt tự nhiên, từ than đá, thủy điện đến dầu mỏ và nhiên liệu sinh học. Cho đến nay, những khách hàng từ châu Á vẫn là những người mua LNG lớn nhất, chiếm 73% tổng lượng nhập khẩu toàn cầu vào năm 2021 theo số liệu của các nhà nhập khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng quốc tế. Mặc dù phần lớn nhu cầu đó đến từ Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, các nhà phân tích kỳ vọng mức tăng trưởng mạnh nhất trong thập kỷ này sẽ đến từ các quốc gia châu Á mới nổi, nơi các cơ quan quốc tế và các công ty dịch vụ toàn cầu đã thúc đẩy sử dụng nhiên liệu thay thế sạch hơn cho than.
Bangladesh đã “rút phích cắm” một trong những nhà máy điện LNG lớn nhất của mình. Và tại Philippines, Bộ Năng lượng của quốc gia này cho biết họ sẽ tìm cách củng cố an ninh năng lượng của mình và khám phá các nguồn khí đốt tự nhiên mới trong nước.
Ông Sultan Khan, người đứng đầu hoạt động của Siemens Energy Bangladesh đã đánh giá về các thị trường châu Á mới nổi rằng: “Họ bắt đầu cảm thấy không chắc chắn về diễn biến giá LNG trong tương lai.”
Trước khi diễn ra đà tăng giá, Philippines, Bangladesh và các quốc gia khác đã đặt ra mục tiêu bổ sung LNG làm nguồn điện, một phần để bù đắp cho sản lượng khí đốt trong nước đang giảm và nhu cầu nhiên liệu ngày càng tăng. Họ cũng đã phải chịu áp lực từ các quốc gia phương Tây trong việc khai thác than.
Các nhà phân tích cho biết trước đây việc chuyển sang sử dụng LNG được tạo thuận lợi do giá giao ngay tại châu Á giảm xuống chỉ còn khoảng 5 USD/triệu đơn vị nhiệt của Anh vào năm 2019 do nguồn cung dư thừa. Ông Alex Siow, một nhà phân tích của công ty nghiên cứu ICIS, cho biết mức giá thấp đó đã cho phép các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á mua hàng hóa trên thị trường giao ngay thay vì ký hợp đồng với các nhà cung cấp LNG. Ngay cả khi họ có các hợp đồng dài hạn nhằm bảo vệ họ khỏi sự thay đổi của giá cả trên thị trường, một số quốc gia như Pakistan đã chứng kiến các nhà kinh doanh không thực hiện được việc giao hàng khi giá đã biến động mạnh như hiện nay.
Một số giám đốc điều hành và nhà phân tích LNG kỳ vọng giá sẽ giảm khi các thiết bị đầu cuối xuất khẩu LNG mới ở Mỹ và Qatar đi vào hoạt động vào cuối thập kỷ này, từ đó sẽ khiến nhu cầu châu Á phục hồi trở lại.
Thách thức của các quốc gia châu Á bao gồm cả Việt Nam
Trong ngắn hạn, các quốc gia bao gồm Việt Nam, Philippines và Bangladesh phải đối mặt với con đường phức tạp phía trước khi họ đã từ bỏ kế hoạch xây dựng các nhà máy điện than mới, trong khi năng lượng mặt trời và điện gió vẫn chưa đủ quy mô để thay thế khí đốt tự nhiên. Một số quốc gia có thể không còn lựa chọn nào khác ngoài việc dựa vào than và dầu nhiên liệu để sản xuất điện.
Mùa hè này, Bangladesh đã phải tăng giá nhiên liệu và bắt đầu thực hiện cắt điện thường xuyên trong bối cảnh nắng nóng gay gắt. Quốc gia này phụ thuộc nhiều vào khí đốt tự nhiên và LNG. Họ đã công bố kế hoạch tang phụ thuộc vào LNG và được ngành công nghiệp coi là mộtđầy hứa hẹn cho nhiên liệu trong thập kỷ tới. Tuy nhiên một sự cố mới đây đã khiến hàng chục triệu người dân đối mặt với cảnh mất điện, theo các báo cáo địa phương.
Bangladesh gần đây đã hủy bỏ một thỏa thuận đa quốc gia nhằm xây dựng một nhà máy điện chạy bằng LNG với công suất 3,6 GW. Lí do là bởi họ không có khả năng mua được nguồn cung cấp LNG đáng tin cậy.
Tại Philippines, công ty phát điện First Gen vẫn chưa công bố nguồn cung cấp LNG cho một cảng nhập khẩu nước ngoài mà họ đang phát triển ở Batangas. Ông Jon Russell, Giám đốc thương mại tại First Gen cho biết, nhà ga đã trì hoãn việc nhận lô hàng hóa đầu tiên cho đến mùa hè năm sau do chuỗi cung ứng gặp khó khăn.
Trong một cuộc họp báo vào tháng 8, Bộ trưởng Năng lượng của Philippines, ông Raphael Lotilla đã mô tả tình hình năng lượng của đất nước là không an toàn, chỉ ra giá dầu cao và những bất ổn liên quan đến nguồn cung cấp than. Ông cho biết cơ quan này sẽ tìm cách phát triển khí đốt tự nhiên trong nước cũng như địa nhiệt và thủy điện.
Thị trường nhiên liệu biến động đang khiến các quan chức ở Việt Nam, quốc gia đã cam kết loại bỏ than đá như một nguồn điện vào năm ngoái lo ngại về việc nhập khẩu LNG. Trong một bức thư gửi Bộ Công Thương vào hồi tháng 6, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đặt câu hỏi về mục tiêu dự thảo kế hoạch năng lượng quốc gia nhằm tăng sản lượng điện sử dụng nhiên liệu LNG lên hơn 16% tổng sản lượng điện của Việt Nam.
Thủ tướng viết rằng sự phụ thuộc vào LNG có thể mang đến rủi ro về giá khí đốt cao khi đối mặt với những biến động địa chính trị trong khu vực và quốc tế. Ông Oliver Massmann, Tổng giám đốc công ty luật Duane Morris Vietnam, cho biết hiện Việt Nam vẫn chưa thông qua phiên bản cuối cùng của kế hoạch năng lượng, một phần là do thách thức trong việc cân bằng các cam kết về khí hậu với nhu cầu năng lượng của mình.
Theo WSJ