Căn bệnh dễ gặp ở trẻ em, nhiều biến chứng khó lường
Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính khá phổ biến ở trẻ em và vẫn chưa có thuốc đặc hiệu để điều trị.
Thường ngày, khái niệm quai bị đã không còn quá xa lạ với số đông. Đây là căn bệnh nhiều người đã mắc phải, đặc biệt là trẻ em. Tuy nhiên, không phải gia đình nào cũng hiểu được những rủi ro tiềm ẩn của căn bệnh này.
Khi nhắc tới quai bị, nhiều bậc phụ huynh truyền tai nhau rằng mắc bệnh có thể khiến con vô sinh. Khi được hỏi về điều này, bác sĩ chuyên khoa I Nhi Phí Văn Công đã đưa ra lời giải đáp chi tiết.
Quai bị là bệnh gì?
Từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, khi Hippocrates mô tả một bệnh nhân có hiện tượng "sưng hai bên hoặc một bên gần tai, và một số người trong số họ bị đau và sưng tinh hoàn hai bên hoặc một bên". Tuy nhiên, việc phân lập và nuôi cấy vi rút chỉ có thể thực hiện được vào năm 1945 và việc tiêm chủng lần đầu tiên được cấp phép vào năm 1967.
Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, thường xuất hiện nhiều vào mùa xuân, hè, tuy nhiên bệnh có thể xảy ra quanh năm kể cả vào mùa thu, đông. Bệnh thường phát triển thành dịch ở những tập thể đông đúc như nhà trẻ, trường học.
Nếu không có chủng ngừa định kỳ, tỷ lệ mắc bệnh được ước tính là 100 - 1.000 ca / 1 triệu dân và cứ sau 4-5 năm lại xuất hiện dịch quai bị một lần. Tuy nhiên, việc phổ cập tiêm chủng đã góp phần rất lớn vào việc giảm tỷ lệ mắc bệnh quai bị trên toàn thế giới.
Tại Việt Nam, vắc xin phòng bệnh Sởi – Quai Bị - Rubella (MMR) được triển khai trong chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia từ năm 2006 đã đóng góp thành công rất lớn trong việc ngăn ngừa bệnh quai bị ở trẻ em.
Vì sao quai bị dễ gây ra vô sinh?
Viêm mào tinh hoàn ở trẻ trai và viêm vòi trứng ở trẻ gái là biến chứng cũng thường gặp của bệnh quai bị. Tuy nhiên, biến chứng này chỉ xuất hiện khi trẻ mắc bệnh ở độ tuổi vị thành niên, không gặp ở trẻ nhỏ. Vậy nên, nếu trẻ chưa dậy thì được chẩn đoán mắc quai bị thì ba mẹ cũng có thể yên tâm về biến chứng này. Tuy nhiên, biến chứng này lại có thể gặp nhiều ở nam thanh niên và nam giới trưởng thành sau mắc bệnh quai bị, thường ở những người từ 15-29 tuổi.
Trong 80% tất cả các trường hợp viêm tinh hoàn do quai bị, các triệu chứng đau và sung tinh hoàn thường xuất hiện 4-8 ngày sau viêm tuyến nước bọt mang tai. Một số trường hợp xảy ra sau 6 tuần sung tuyến nước bọt mang tai. Thường viêm tinh hoàn một bên, khoảng 15-30% các trường hợp có biểu hiện hai bên. Viêm tinh hoàn cả 2 bên có thể dẫn đến vô sinh, tuy nhiên khả năng này ít xảy ra và chỉ gặp ở nam giới.
Bất kỳ cơn đau tinh hoàn nào cũng có thể được làm giảm bớt bằng cách uống thuốc giảm đau như paracetamol hoặc ibuprofen (đủ liều dùng và đủ thời gian). Chườm lạnh hoặc ấm lên tinh hoàn và mặc quần lót hỗ trợ cũng có thể làm giảm cơn đau. Nếu cơn đau đặc biệt nghiêm trọng, bạn nên cho trẻ đi khám để được dùng thuốc hợp lý.
Trẻ nữ vị thành niên và nữ trưởng thành sau khi mắc bệnh quai bị cũng có thể có biến chứng viêm vòi trứng (khoảng 7%) với biểu hiện là đau và căng vùng chậu.
Đối với trẻ nhỏ mắc quai bị, biến chứng viêm sinh dục không xảy ra nhưng vẫn nên cho trẻ nghỉ ngơi tại chỗ, hạn chế vận động nhiều đến khi hết các triệu chứng của bệnh. Đối với trẻ nam vị thành niên mắc bệnh quai bị, nên nghỉ ngơi, hạn chế vận động, đi lại nhẹ nhàng để tránh biến chứng viêm sinh dục do quai bị.
Các biến chứng khác của bệnh quai bị
Bệnh quai bị có thể gặp một số biến chứng như viêm màng não, viêm tụy cấp…
Viêm não – màng não sau quai bị
Viêm não - màng não là biến chứng thường gặp nhất ở trẻ em mắc bệnh quai bị. Các dấu hiệu kích ứng màng não phổ biến hơn ở trẻ lớn, thanh thiếu niên và người lớn. Các dấu hiệu viêm màng não sau quai bị ở trẻ nhỏ thì không đặc hiệu hơn như buồn ngủ, li bì, thậm chí hôn mê.
Biến chứng viêm não – màng não do quai bị xuất hiện trong khoảng 0,5% trường hợp, và viêm não - màng não do quai bị có tiên lượng khán tốt, tốt hơn so với các bệnh viêm não – màng não do virus khác.
Viêm tụy cấp do quai bị và một số biến chứng khác
Viêm tụy xảy ra trong 3% các trường hợp mắc quai bị nhưng hiếm khi có biểu hiện nghiêm trọng và hiếm khi xảy ra ở trẻ em. Một số triệu chứng có thể gặp như gây đau và căng vùng thượng vị, sốt, ớn lạnh, nôn mửa và mệt nhiều.
Điếc cũng là một biến chứng rất hiếm xảy ra của bệnh quai bị (0.5-5/10.000 trường hợp) nhưng mức độ khiếm thính nhẹ được cho là phổ biến hơn. Điếc do quai bị có thể xảy ra kèm theo hoặc không kèm theo viêm màng não sau khi nhiễm trùng. Điếc và khiếm thính nhẹ thường xảy ra ở một bên và thường vĩnh viễn.
Trước khi vắc xin được phát triển, Phụ nữ mang thai mắc quai bị làm tăng tỷ lệ tử vong thai nhi trong 3 tháng đầu thai kỳ, với tỷ lệ sẩy thai tự nhiên là 25% đã được quan sát nhưng không tìm thấy bằng chứng về việc tăng nguy cơ dị tật tử vong.
Triệu chứng của quai bị ở trẻ em
Trước đây khi chưa có vắc xin, các vụ dịch quai bị thường xuyên diễn ra và các triệu chứng của bệnh quai bị khá rõ ràng. Tuy nhiên khi vắc xin phủ được rộng thì các triệu chứng của bệnh quai bị trên nhóm bệnh nhân mắc bệnh nghèo nàn hơn và khó chẩn đoán hơn.
Bệnh quai bị có thể xảy ra ở cả trẻ em và người lớn. Đồng thời, cũng xảy ra ở cả nhóm trẻ nam và trẻ nữ, tuy nhiên biến chứng ở hai nhóm này là khác nhau.
Bệnh có thể gặp các dạng khác nhau, có biến chứng hoặc không.
- Quai bị thoáng qua với các dấu hiệu và triệu chứng mơ hồ.
- Quai bị điển hình với triệu chứng sung tuyến nước bọt mang tai 2 bên điển hình.
- Quai bị điển hình và có biến chứng viêm màng não hoặc viêm tinh hoàn.
Khoảng 75% các trường hợp quai bị có triệu chứng rõ ràng ở trẻ em nhưng không có biến chứng. Có đến 30% trẻ em bị nhiễm quai bị nhưng không có triệu chứng của viêm tuyến nước bọt mang tai.
Hiện tượng sung tuyến nước bọt mang tai bắt đầu từ ngày đầu tiên và đạt mức tối đa từ 1-3 ngày sau đó giảm dần sau 7 ngày. Nói chung, các biểu hiện lâm sàng biểu hiện nhẹ ở trẻ em và nặng ở người lớn. Các biến chứng của bệnh thì ít gặp hơn sau khi tiêm chủng.
Trẻ mắc quai bị điển hình có biểu hiện sốt, chán ăn, nhức đầu, nôn mửa và đau nhức toàn thân trong 1,2 ngày đầu. Sau đó, tuyến mang tai bắt đầu to ra và kèm theo đỏ nhẹ các lỗ của ống dẫn tuyến nước bọt bên trong niêm mạc má 2 bên.