Cam kết tại COP26: Cần cơ chế hỗ trợ để có dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn
Cam kết tại COP 26 buộc Việt Nam phải thúc đẩy năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, năng lượng tái tạo sẽ không thể trở thành xu hướng như hiện nay nếu thiếu đi các cơ chế chính sách hỗ trợ, tạo đà để phát triển thị trường.
Cam kết đầy thách thức
Nhắc đến cam kết đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050 của Việt Nam, ông Rahul Kitchilu, Phụ trách Chương trình Cơ sở hạ tầng, Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng: Những cam kết của Việt Nam tại COP-26 được tổ chức tại Glasgow về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 đóng vai trò quan trọng toàn cầu. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia đi đầu về phát triển năng lượng tái tạo – với hơn 20 GW năng lượng tái tạo – và huy động 17 tỷ USD đầu tư tư nhân trong vòng 2 năm qua. Đây là một nỗ lực vô cùng đáng ghi nhận và là những bước đi nghiêm túc hướng tới đẩy mạnh chuyển dịch năng lượng sạch và loại bỏ carbon khỏi nền kinh tế.
Tuy nhiên, phía trước vẫn còn rất nhiều thách thức, làm sao để cân bằng giữa chuyển dịch năng lượng và đảm bảo an sinh xã hội, cũng như giá thành hợp lý của nguồn cung năng lượng nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng đang gia tăng nhanh chóng, song hành với việc chuyển đổi thành một nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045 của Chính phủ.
Thời gian qua, Việt Nam cũng đã có cơ chế chính sách hỗ trợ cho năng lượng tái tạo như áp dụng giá FIT với điện gió và điện mặt trời. Việc này đã góp phần tạo ra sự bùng nổ về phát triển điện mặt trời, điện gió. Thế nhưng, điểm trừ của các cơ chế này là thời gian áp dụng ngắn ngủi, cộng với ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 khiến cho nhiều dự án lâm cảnh "lỡ hẹn giá FIT" và đối diện tương lai bất định. Cơ chế chính sách cho điện mặt trời, điện gió sau đó cũng chậm ban hành, khiến nhà đầu tư không thể hoạch định ra các kế hoạch đầu tư trong tương lai.
Đưa ra giải pháp chuyển dịch năng lượng nhằm đưa phát thải ròng bằng 0, đại diện WB đánh giá: Việt Nam may mắn có nhiều tiềm năng để phát triển năng lượng tái tạo. Bên cạnh năng lượng mặt trời, gió, Việt Nam còn có tiềm năng to lớn về gió thổi từ đất liền ra biển. Phân tích cho thấy khoảng 370 GW năng lượng tái tạo có thể được tạo ra thêm vào năm 2040 để giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.
Những kinh nghiệm gần đây của Việt Nam cho thấy, có thể hiện thực hóa điều này chủ yếu qua đầu tư tư nhân. Để tiếp tục duy trì sự tăng trưởng này đối với năng lượng tái tạo, cần có các cải tiến trong việc hoạch địch mở rộng hệ thống năng lượng, khung pháp lý đối với việc thu mua để đảm bảo nguồn cung năng lượng tái tạo có chi phí thấp…
TS Ngô Đức Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) cho rằng: Điện gió không chiếm nhiều đất, đây là điều trái ngược hẳn với điện mặt trời. Các turbine gió và thiết bị thực tế không sử dụng nhiều không gian đất. Điều này có nghĩa là đất được sử dụng để đặt các trụ turbine, cũng có thể được sử dụng cho các mục đích khác, chẳng hạn như nông nghiệp.
Ngoài ra, theo TS Ngô Đức Lâm, không giống như than đá, khí đốt tự nhiên hoặc dầu, bản thân các turbine gió không yêu cầu đốt bất kỳ nhiên liệu hóa thạch nào để hoạt động. Nguồn năng lượng gió không bao giờ cạn kiệt, bởi gió xuất hiện tự nhiên trong bầu khí quyển mà chúng ta không phải lo lắng về nguồn cung cấp. Giờ đây điện gió còn được làm trên mặt biển, lấy gió ngoài khơi để phát điện. Cho nên các nước đang tập trung cho điện gió ngoài khơi. Gió ngoài khơi có tiềm năng lớn, ổn định hơn so với đất liền. Nhưng làm điện gió ngoài khơi thì cần có móng cột vững chãi, cho nên phụ thuộc nhiều yếu tố. Xu hướng công nghệ thế giới thời gian tới sẽ phát triển mạnh hơn bây giờ nhiều và giá thành điện gió sẽ rẻ hơn rất nhiều.
"Điện gió bây giờ đắt hơn điện mặt trời và nhiệt điện than. Nhưng trong tương lai giá điện gió sẽ rẻ hơn. Tương lai điện gió sẽ chiếm tỷ lệ cao hơn so với điện mặt trời. Năng lượng gió lại phát được cả ngày và đêm cho nên lượng điện sinh ra sẽ nhiều hơn so với năng lượng mặt trời. Cùng có công suất lắp đặt là 10.000 MW, nhưng một loại chỉ phát được tối đa 12 tiếng, trong khi một bên phát điện được 24 tiếng. Như vậy lượng điện thu được từ gió sẽ tốt hơn và nhiều hơn. Cho nên giá thành điện gió trong tương lai sẽ rẻ nhanh hơn so với năng lượng khác", TS Ngô Đức Lâm chia sẻ.
Thị trường năng lượng tái tạo Việt Nam có gì khác biệt?
Từ góc độ nhà đầu tư, ông Stuart Livesey, Tổng giám đốc dự án điện gió La Gàn cho rằng: Một lộ trình rõ ràng cho tương lai của ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi ở Việt Nam là rất quan trọng, xét về thời điểm và cách thức các dự án được lựa chọn và triển khai. Điều này một lần nữa có thể giảm bớt rủi ro cho các nhà phát triển, nhờ đó cho phép các nhà phát triển và nhà cung cấp lớn cam kết đầu tư lâu dài với quy mô lớn hơn ở một thị trường châu Á-Thái Bình Dương cạnh tranh và khắt khe.
Theo ông Stuart Livesey, điện gió ngoài khơi đòi hỏi các khoản đầu tư lớn, do đó cần có một Hợp đồng mua bán điện (PPA) có khả năng giải quyết các vấn đề liên quan đến: cắt giảm công suất phát lên lưới điện, khoản thanh toán khi chấm dứt PPA, cơ quan giải quyết tranh chấp, quyền của bên cho vay kế thừa dự án và thay đổi pháp luật.
Bên cạnh đó, vị này cho rằng: Sự thiếu rõ ràng trong các chính sách và những rủi ro khác sẽ dẫn đến việc gia tăng chi phí, nguyên nhân là do các nhà đầu tư phải dự phòng một khoản ngân sách lớn cho các rủi ro trong trường hợp các dự án bị đình trệ hoặc huỷ bỏ.
Đặt câu hỏi các nhà đầu tư cần làm gì trước những sự thay đổi của cơ chế, chính sách đầu tư, mua bán điện tái tạo, một nhà đầu tư cho biết: Bị động là chỉ có thể ngồi im chờ cơ chế được ban hành và triển khai, nhưng đối với các nhà đầu tư thì bị động có nghĩa là chết. Do đó, phải luôn chủ động kiện toàn lại hệ thống/doanh nghiệp/tối ưu hoạt động chi phí để đảm bảo chờ được cơ chế mới. Tiếp tục tìm kiếm các cơ hội trong các mảng kinh doanh có liên quan hay cùng hệ sinh thái năng lượng vì việc này vẫn còn rất nhiều dư địa để phát triển.
Ngoài ra, nhà đầu tư cần bảo vệ và tìm kiếm nguồn tài chính mới để tiếp tục tái nâng cấp/đầu tư vào các xu hướng năng lượng mới; chủ động tìm kiếm các nguồn lực trong và ngoài nước thực sự am hiểu và có năng lực về năng lượng, mở ra các cơ hội hợp tác với các đối tác có năng lực triển khai các dự án năng lượng tái tạo.
Quá trình chuyển dịch năng lượng sẽ đòi hỏi vốn đầu tư và cần giảm thiểu tác động lên giá điện. Phân tích của các chuyên gia WB cho thấy sẽ cần khoảng 166 tỷ đô la (giá trị hiện tại) để đầu tư cho ngành điện tới năm 2040 để chuyển dịch theo các mục tiêu của COP26. Con số này cao hơn khoảng 50% so với con số 109 tỷ USD được ước tính theo kịch bản chính sách hiện tại được nêu ra trong dự thảo quy hoạch điện 8 sơ bộ. Giá điện trung bình cũng có thể tăng khoảng 25% vào năm 2040.
"Để đáp ứng nhu cầu tài chính, cần có sự kết hợp của nhiều nguồn lực, bao gồm tái phân bổ nguồn tiết kiệm nội địa cho các dự án liên quan đến khí hậu, tăng dự trữ quốc gia, và nguồn hỗ trợ tài chính từ bên ngoài. Nguồn vốn ODA có thể giúp giảm thiểu nguy cơ và huy động lĩnh vực kinh tế tư nhân, cải thiện tính tiếp cận của các dịch vụ về điện. Việt Nam nên làm việc chặt chẽ với các đối tác phát triển đa phương và song phương để đảm bảo nguồn tài chính cho các nỗ lực chuyển dịch năng lượng xanh", ông Rahul Kitchilu chia sẻ.