Bloomberg: Mỹ phải đang trả giá vì có tới 4,700 ngân hàng?
Cuối năm 2022, Mỹ có tới 4,706 ngân hàng đang hoạt động, vượt xa các quốc gia khác.
Bloomberg: Mỹ phải đang trả giá vì có tới 4,700 ngân hàng?
Cuối năm 2022, Mỹ có tới 4,706 ngân hàng đang hoạt động, vượt xa các quốc gia khác.
Khi Signature Bank ở New York sụp đổ và bị FIDC kiểm soát, những người gửi tiền ở tận các bang xa xôi Arkansas, Georgia và Ohio đã rất sợ hãi. Đó là vì có tới 4 ngân hàng có tên Signature Bank ở Mỹ. Dĩ nhiên, khách hàng không biết ngay lập tức ngân hàng nào đang gặp rắc rối.
Trước sự mù mờ đó, Signature Bank ở bang Arkansas phải gửi dòng tweet: “Chỉ là một lời nhắc nhở thân thiện rằng chúng tôi là Signature Bank ở bang Arkansas”.
Việc có quá nhiều ngân hàng trùng tên Signature Bank cũng phản ánh một thực tế rằng Mỹ có quá nhiều ngân hàng. Cuối năm 2022, có tới 4,706 ngân hàng đang hoạt động ở nước Mỹ, vượt xa các quốc gia khác.
Thậm chí, Canada có ít ngân hàng hơn cả bang North Dakota của Mỹ. Số lượng ngân hàng ở Nhật Bản chỉ bằng 4% ở Mỹ. Liên minh châu Âu (EU) cũng có nhiều ngân hàng, nhưng cũng chỉ có 1.2 ngân hàng trên 100,000 người, so với con số 1.4 của Mỹ.
Việc Mỹ có quá nhiều định chế nhận tiền gửi và cho vay xuất phát từ lịch sử phát triển của hệ thống này. Cho tới giữa thập niên 80, nhiều bang ở Mỹ không cho phép các ngân hàng hoạt động xuyên bang. Một số thậm chí không cho phép các chi nhánh vượt qua ranh giới quận.
Mãi cho tới năm 1994, Đạo luật Ngân hàng liên bang Riegle-Neal lại cho phép các ngân hàng mở các chi nhánh nhận tiền gửi vượt khỏi biên giới tiểu bang, bằng cách sáp nhập với các ngân hàng khác.
Thay đổi này đã châm ngòi cho làn sóng hợp nhất giữa các ngân hàng. Trong 30 năm qua, số lượng ngân hàng ở Mỹ đã thu hẹp khoảng 3%/năm.
Nhưng ngay cả sau nhiều vụ sáp nhập và mua lại, Mỹ vẫn còn quá nhiều ngân hàng. Người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn, nhưng sự cạnh tranh trong một hệ thống bị phân mảnh có thể dẫn tới sự bất ổn tiềm tàng.
Trong quá khứ, có rất nhiều nghiên cứu cho thấy cạnh tranh khốc liệt có thể khiến các chủ ngân hàng dễ lầm đường lạc lối như thế nào. Ông Chuck Prince từng nhận định: “Chừng nào nhạc còn đang phát là còn nhảy”. 15 tháng sau, ngân hàng của ông, Citigroup, phải nhờ tới sự hỗ trợ của Chính phủ Mỹ.
Gần đây hơn, các giám đốc điều hành của Silicon Valley Bank (SVB) có thể đã được khuyến khích chấp nhận rủi ro nhiều hơn vì thù lao của họ gắn liền đến mức ROE mà họ tạo ra “so với các ngân hàng cùng quy mô”. Bên cạnh đó, khi tìm kiếm lợi thế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, Alan Lane, Giám đốc điều hành của Silvergate, đã coi tiền ảo là “cơ hội để cung cấp dịch vụ ngân hàng cho những công ty bị các ngân hàng khác ngó lơ”.
Ổn định và cái giá phải trả
Trong sự đánh đổi giữa ổn định tài chính và cạnh tranh, nhiều chính quyền chủ yếu chọn sự ổn định.
Tuần trước, Chủ tịch Cơ quan Giám sát thị trường tài chính Thụy Sĩ (FINMA) gạt bỏ những lo ngại về chống độc quyền, khi thúc giục UBS thâu tóm Credit Suisse - vốn đang trong cơn nguy kịch.
Đó cũng là một bước đi mà các cơ quan quản lý của Anh đã sử dụng trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Khi Ngân hàng Scotland (HBOS) sáp nhập với Ngân hàng Lloyds-TSB năm 2009, 1/3 tài khoản ngân hàng vãng lai của Anh đã được dồn vào tay một tổ chức. Điều này khiến các cơ quan về cạnh tranh thương mại lo ngại. Tuy nhiên, mối lo ngại này đã bị gạt phăng đi. Khi đó, vị Bộ trưởng Kinh doanh và Thương mại Anh, Peter Mandelson, nhấn mạnh: “Lợi ích chung của việc đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính Anh vượt xa những lo ngại về cạnh tranh".
Trong khi đó, các cơ quan chức trách Mỹ tỏ ra không đồng tình về việc đánh đổi giữa quyền cạnh tranh và sự ổn định. Một phần do chính quyền tôn trọng thị trường tư nhân. Mặt khác, chủ yếu là do các ngân hàng nhỏ khai thác đáng kể sức mạnh vận động hành lang.
Nhiều thành viên Quốc hội Mỹ nằm trong số 25 nhà tài trợ hàng đầu của các ngân hàng nhỏ, theo dữ liệu do Byrne Hobart tổng hợp.
Điều này dẫn tới các ngân hàng Mỹ phải tuân theo giới hạn về quy mô của họ. Đạo luật Riegle-Neal đã giới hạn các ngân hàng quốc gia ở mức 10% thị phần tiền gửi. Tuy nhiên, giới hạn này có thể được gỡ bỏ (với sự chấp thuận của Fed) trong trường hợp một ngân hàng mua lại "một ngân hàng bị vỡ nợ hoặc có nguy cơ vỡ nợ".
Kết quả là một hệ thống ngân hàng hai cấp ở Mỹ: Các ngân hàng lớn sẽ chịu sự giám sát đầy đủ, trong khi các ngân hàng nhỏ hơn được miễn trừ.
Cuộc khủng hoảng ngân hàng gần đây ở Mỹ đã phơi bày sự khác biệt này. Trong bối cảnh hiện tại, để duy trì sự cạnh tranh, Mỹ có thể phải trả một cái giá khá đắt: Đó là sự bất ổn gia tăng.
*Bài viết thể hiện quan điểm của Marc Rubinstein, từng là nhà quản lý quỹ đầu cơ, trên Bloomberg Opinion.
Vũ Hạo (Theo Bloomberg)