Bé trai 6 tuổi bị biến dạng vẹo lệch cột sống - lời cảnh báo cho các bậc cha mẹ
Khoa Ngoại thần kinh cột sống - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội vừa tiếp nhận bệnh nhi 6 tuổi trong tình trạng đầu vẹo hẳn sang một bên, gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt.
Bệnh nhi sống tại một tỉnh vùng Tây Bắc, được phát hiện vẹo cột sống từ lúc sinh ra kèm theo bệnh lý tim bẩm sinh, đã được phẫu thuật tim từ sơ sinh.
Năm 2019, gia đình đưa bệnh nhi đến Bệnh viện Đại học Y Hà Nội khám và được chẩn đoán vẹo cột sống bẩm sinh do bất thường phân đoạn và bất thường hình thành cấu trúc thân đốt sống. Tình trạng này khiến cho toàn bộ cột sống vùng cổ và ngực bệnh nhi bị biến dạng vẹo lệch sang bên trái.
Do đang trong quá trình tiến triển của đường cong, nên bệnh nhi có chỉ định theo dõi sự biến dạng bằng cách chụp X-quang sau mỗi 6 tháng, nhằm bắt được giai đoạn tăng trường bất thường thì sẽ có chỉ định can thiệp phẫu thuật.
Nếu không có động thái can thiệp, đường cong sẽ tiếp tục tiến triển, gây ra biến dạng cột sống cổ ngực rất nặng nề, trải qua thời gian, có thể tiến triển thêm gù cột sống, có nguy cơ chèn ép tủy, gây yếu tứ chi tăng dần, thậm chí liệt.
Nếu tình trạng tiến triển nhanh, việc phẫu thuật là tuyệt đối cần thiết. Bởi việc làm này không chỉ để nắn chỉnh cột sống mà còn ngăn chặn sự tiến triển của đường cong.
"Nếu bệnh nhi được khám lại kịp thời, theo dõi chặt chẽ sau mỗi 6 tháng thì rất có thể đã có giải pháp phù hợp hơn. Rất tiếc, với trường hợp này, do gia đình chủ quan, đưa bệnh nhi đến viện muộn nên việc phẫu thuật cột sống là khá xa vời..." - ThS.BS Trần Trung Kiên, người trực tiếp thăm khám, điều trị cho cháu tỏ ra tiếc nuối và xót xa.
Hiện tại, bệnh nhi được chỉ định đeo nẹp. Tuy nhiên, đeo nẹp trong vẹo cột sống bẩm sinh chỉ mang tính chất tạm thời nếu không muốn nói là rất ít hiệu quả. Nhưng nếu không xử lý tạm thời như vậy thì bệnh nhi thậm chí sẽ không có khả năng ngồi được vào bàn học.
Qua trường hợp đáng tiếc này, việc tư vấn cho người chăm sóc trẻ cách phát hiện và việc cần xử lý sớm ca bệnh rất quan trọng, nhiều gia đình không chú ý, bỏ qua thời điểm "vàng" để can thiệp khiến con mang tật suốt đời.
Đối với vẹo cột sống bẩm sinh, từ khi trong bụng mẹ, trong 3 tháng cuối của thai kỳ, dựa trên siêu âm đã có thể phát hiện và đưa ra tiên lượng theo dõi cũng như điều trị.
Một số tỷ lệ khác chỉ có thể phát hiện được sau khi sinh, hoặc sau mỗi giai đoạn phát triển của trẻ như: lẫy, ngồi, đứng, đi… Đây là nhóm biến dạng cột sống cần phải theo dõi vô cùng sát sao bởi tốc độ tiến triển rất nhanh, đặc biệt trong những năm đầu, vẹo cột sống chèn ép nặng cơ quan nội tạng có thể gây tử vong cho trẻ.
Đối với vẹo cột sống vô căn, bác sĩ cho biết, do chúng ta không xác định được căn nguyên, nên định nghĩa là biến dạng cột sống không có căn nguyên (không phải do làm nặng, sai tư thế khi ngồi học…).
Cũng giống như vẹo cột sống bẩm sinh, vẹo cột sống vô căn có thể phát hiện ra ở giai đoạn sớm (early-on-set) trước 10 tuổi hoặc phổ biến hơn là ở lứa tuổi thiếu niên.
Vẹo cột sống vô căn chiếm tới 80% các biến dạng cột sống của trẻ em. Vì vậy, việc tầm soát và theo dõi cũng chính là một phương pháp điều trị.
Theo đó, để phòng ngừa, cha mẹ có thể quan sát con hằng ngày từ đằng sau lưng để loại trừ các dấu hiệu như:
- Khoảng cách giữa hai tay khi buông thõng cách xa thân mình.
- Mất đối xứng giữa hai vai.
- Một bên khung chậu nhô cao.
- Đặc biệt khi nói con trẻ cúi 2 hai tay chạm đất, sẽ thấy một bên lồng ngực nhô cao hẳn so với bên còn lại.
Trên đây là những dấu hiệu sơ bộ và đơn giản để có thể tự phát hiện những biến dạng cột sống của con trẻ tại nhà. Khi xác định rõ, hoặc nghi ngờ, việc đưa con trẻ đến khám chuyên khoa và theo dõi là cần thiết.
Tùy vào tình trạng sau khi thăm khám lâm sàng, các bác sĩ sẽ có chỉ định tương ứng. Việc chụp X-quang toàn bộ cột sống thường quy thẳng nghiêng là một bước cơ bản để chẩn đoán mức độ biến dạng của cột sống.
Một số ít vẹo cột sống có liên quan đến bệnh lý thần kinh cơ hoặc hệ gene, có thể liên quan đến di truyền. Còn lại vẹo cột sống vô căn không mang yếu tố di truyền, vì thế sau quá trình theo dõi hoặc can thiệp phẫu thuật, trẻ sẽ sớm trở về cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày.