Bạn lo lắng về giá dầu? Các biểu đồ dưới đây sẽ cho thấy điều gì có thể xảy ra tiếp theo
Đợt tăng gần đây đã đưa giá dầu lên sát mức kỷ lục đã đạt được vào năm 2008, nhưng bức tranh hiện nay hoàn toàn khác với bức tranh của 14 năm về trước khi các điều kiện lạm phát nổi bật trên nền rất nhiều yếu tố hỗn độn.
Giá dầu đã tăng và giảm ngoạn mục trong vài tuần qua khi cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine làm suy giảm nguồn cung vốn đã khan hiếm trên thị trường quốc tế.
Giá dầu thô Brent đầu tháng này đã quay trở lại mức cao nhất kể từ năm 2008 sau khi chính quyền của ông Biden cho biết Mỹ sẽ cấm nhập khẩu dầu Nga. Nhưng điều bất ngờ là giá kể từ đó đã giảm 20%, giao dịch quanh mức 107 USD/thùng vào thứ Sáu (18/3), sau khi Trung Quốc tuyên bố phong tỏa để hạn chế sự lây lan của dịch Covid-19 và khi các nhà đầu tư suy đoán liệu các thành viên OPEC có tăng sản lượng hay không.
Giảm chưa được bao lâu, ngày 21/3 giá dầu lại đột ngột tăng trở lại, với mức tăng tới hơn 7% chỉ trong phiên đầu tuần, khi các nước Liên minh Châu Âu bàn bạc về việc có nên áp đặt lệnh cấm nhập khẩu dầu mỏ của Nga hay không, với một số trong khối đã thôi thúc hành động này. Giá dầu Brent kết thúc phiên này tăng vọt lên 115,62 USD/thùng, dầu WTI của Mỹ cũng lên 112,12 USD/thùng.
Mặc dù biến động chỉ trong một thời gian ngắn, song tác động đến người tiêu dùng là có thật. Theo AAA, giá dầu tăng mạnh gần đây đã đẩy giá xăng tại Mỹ lên mức cao kỷ lục, 4,30 USD/gallon, và vẫn duy trì ở quanh mức cao này, kể cả việc giá dầu đã có những phiên giảm nhanh. Tổng thống Mỹ, Joe Biden đã phải viết tweet kêu gọi xem xét vấn đề này.
Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo trên thị trường dầu mỏ là mối quan tâm của bất kỳ ai vào lúc này, khi mà "bầu trời" địa chính trị vẫn đầy mây đen.
Nhưng nhìn lại lịch sử có thể giúp tỉnh táo hơn trong việc quan sát tình hình hiện tại đồng thời cung cấp manh mối về triển vọng thị trường trong tương lai.
Giá có thực sự cao như vậy không?
Mặc dù mức tăng đột biến gần đây đã đưa giá gần tới mức kỷ lục đã từng đạt được trong năm 2008, song bức tranh lúc này khác với năm 2008 xét theo các điều kiện lạm phát – đã điều chỉnh theo thời gian. Đợt giá tăng do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 nếu điều chỉnh theo lạm phát thì chi phí một thùng dầu năm 2022 phải lên tới 187 USD USD. Con số đó tăng 40% so với mức 133 USD đạt được trong tháng này.
Những mốc giá gần đây cũng không hiếm như các thông tin báo chí đang đưa.
Năm 1974, giá dầu thô Brent giao sau ở mức 95 USD/thùng, nếu tính theo tỷ giá USD ngày nay, khi các thành viên của OPEC áp đặt lệnh cấm vận xuất khẩu để phản đối với Mỹ và các quốc gia khác vì đã ủng hộ Israel trong cuộc chiến Ả Rập-Israel năm 1973.
Và vào năm 1979, khi cuộc cách mạng Iran khiến sản lượng dầu của nước này giảm xuống, giá dầu thô đã tăng hơn 300% trong vòng một năm, đạt mức tương đương 155 USD. Khi Iraq xâm lược Kuwait vào năm 1990 và trong cuộc nổi dậy Mùa xuân Ả Rập vào đầu những năm 2010, giá tương ứng lên tới 87 USD và 159 USD, tính theo tỷ giá hiện tại.
Giá dầu tăng có đủ cơ sở để dự báo suy thoái không?
Lịch sử cho thấy giá dầu cao kỷ lục luôn là điều không được chào đón. Trong quá khứ, khi giá dầu tăng hơn 100% trong vòng 12 tháng, thường có xu hướng xảy ra một đợt suy thoái sau đó.
Đó là bởi vì giá dầu tăng làm cho gần như mọi thứ, từ sản xuất đến vận chuyển…đều trở nên đắt đỏ hơn, chưa kể ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí xăng dầu và hệ thống sưởi. Việc Nga thực hiện "chiến dịch đặc biệt" ở Ukraine và cuộc khủng hoảng dầu căng thẳng hơn nữa có thể xảy ra đã đến vào một thời điểm đặc biệt tồi tệ, do nền kinh tế Mỹ đã bị lạm phát cao kỷ lục 40 năm bởi sự gián đoạn chuỗi cung ứng sau đại dịch Covid-19.
Vào tháng Hai, chỉ số giá tiêu dùng ở Mỹ lên tới 7,9% (so với cùng kỳ năm trước), là mức tăng nhiều nhất kể từ năm 1982. Điều đó có nghĩa là người tiêu dùng, hầu hết có thu nhập không theo kịp với giá cả tăng, sẽ phải cắt giảm chi tiêu.
Trong lịch sử, nhu cầu tiêu dùng giảm thường là dấu hiệu đầu tiên cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Giá tăng đã gây áp lực buộc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) phải tăng lãi suất. Ngân hàng trung ương Mỹ đã thông qua việc tăng lãi suất 0,25 điểm phần trăm vào thứ Tư (16/3) và có kế hoạch sẽ hành động tương tự tại mỗi cuộc họp trong số sáu cuộc họp còn lại vào năm 2022.
Động thái đó nhằm mục đích hạ nhiệt nền kinh tế và giữ lạm phát trong tầm kiểm soát. Nhưng điều đó có thể khiến cho hoạt động kinh doanh trở nên khó khăn hơn.
Nếu Fed không tăng lãi suất đủ nhanh để kiềm chế lạm phát, nền kinh tế có thể chịu tác động kép – từ giá cả tăng nhanh và tăng trưởng chậm, hay còn gọi là "lạm phát đình trệ". Đây là những gì đã xảy ra sau cú sốc giá dầu vào những năm 1970.
Mặt khác, nếu ngân hàng trung ương tăng lãi suất quá nhanh, trước khi nền kinh tế sẵn sàng, điều đó có thể gây tác động quá lớn đến mọi thứ, không khuyến khích các công ty vay và đầu tư, và gây ra suy thoái.
Có lý do để lạc quan không?
Một số chuyên gia tin rằng nền kinh tế ngày nay có khả năng chống chọi tốt hơn với các cú sốc giá dầu so với trước đây, và do đó ít có khả năng rơi vào suy thoái ngay cả khi giá năng lượng tiếp tục tăng.
Các hộ gia đình Mỹ đã tiết kiệm được rất nhiều tiền trong đại dịch Covid-19, điều này có thể giúp họ vượt qua giá cả tăng và duy trì chi tiêu ở mức hiện tại trong một thời gian.
Chi tiêu tiêu dùng cá nhân của người Mỹ trong tháng 1 đã tăng 11,8% so với năm ngoái, mặc dù thu nhập của họ thấp hơn 2,1% so với một năm trước, nhờ những khoản tiết kiệm lớn đến từ các đợt hỗ trợ và kích thích kinh tế của Chính phủ thực hiện trong giai đoạn đại dịch. Chi tiêu cá nhân tăng nhanh hơn tốc độ lạm phát, có nghĩa là người tiêu dùng đang mua nhiều hơn mặc dù giá cả tăng, khi họ trở lại cuộc sống bình thường sau đại dịch.
Ngay cả khi cuộc sống hàng ngày đã ổn định trở lại, nhiều người vẫn làm việc từ xa hoặc ít đến văn phòng hơn. Điều đó có nghĩa là họ linh hoạt hơn trong việc quyết định thời gian và tần suất đi làm, và do đó ít bị ảnh hưởng bởi giá xăng tăng.
Nền kinh tế cũng trở nên tiết kiệm năng lượng hơn, khiến mức độ ảnh hưởng từ giá dầu cao đối với suy thoái cũng giảm nhẹ đi.
Tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ sau khi điều chỉnh theo lạm phát đã tăng gần gấp 4 lần kể từ những năm 1970. Nhưng tổng mức tiêu thụ năng lượng của quốc gia này đã tăng khiêm tốn hơn nhiều. Đặc biệt, mức tiêu thụ dầu thô hiện nay đã gần bằng mức được thấy nhiều thập kỷ trước, khi thế giới hướng tới các nguồn sạch hơn và có thể tái tạo.
Tất cả điều này có nghĩa là chúng ta cần ít năng lượng hơn dù sản xuất nhiều hơn. Cường độ năng lượng, được đo bằng mức bao nhiêu năng lượng cần thiết cho mỗi USD GDP thực, đã giảm 2/3 từ đầu những năm 1970 đến nay.
Ngày nay, Mỹ cũng ít phụ thuộc hơn vào các nguồn dầu nước ngoài. Trong thập kỷ qua, ngành dầu đá phiến của Mỹ đã tăng trưởng bùng nổ. Mỹ hiện là nhà sản xuất dầu lớn nhất thế giới và nhập khẩu rất ít từ Nga so với các nước khác.
Những điều cần lưu ý
Tuy nhiên, các nhà đầu tư nên thận trọng. Thị trường chứng khoán đã trở nên đắt hơn nhiều so với những năm 1970, khiến nó dễ bị sụp đổ trong việc định giá –– nếu có điều gì xấu xảy ra đối với nền kinh tế.
Ở thời điểm tháng 12/2021, tỷ lệ giá trên thu nhập được điều chỉnh theo chu kỳ của chỉ số S&P 500, còn được gọi là Shiller P/E, đạt 38, tăng nhiều so với bất kỳ cuộc khủng hoảng dầu mỏ nào trước đó và chỉ kém kỷ lục của 44 đã đạt được trong thời kỳ bong bóng dot-com năm 2000. Tất cả chúng ta đều hiểu nếu chứng khoán sụp đổ một lần nữa thì hậu quả đối với kinh tế sẽ như thế nào.
Tham khảo: Barrons